Truyện ngắn

SƯƠNG TRẮNG THỚI ĐÔNG Nguyễn Thanh

Quỳnh Giao SƯƠNG TRẮNG THỚI ĐÔNG Truyện ngắn Buổi sáng xuân, hạt nắng long lanh tỏa rộng bầu trời xanh ngọc bích, lung linh mặt sông Hậu bát ngát mênh mông. Như mọi ngày, bến đò Ô Môn nằm bên bờ sông sáng chiều tấp nập xuồng ghe, hành khách và người đi chợ không khác gì cảnh chợ nổi miệt vườn. - Bà con, ai đi Thới Lai, Cờ Đỏ xuống tàu. Giờ khởi hành đến rồi ! Giọng nói khàn khàn, dõng dạc của chị Hai Khỏe - chủ tàu Thới Đông mập mạp, tuổi sồn sồn, ngồi sau lái tàu cạnh chiếc máy đuôi tôm, thông báo cùng hành khách đứng trên bờ. Tiếng chị oang oang mạnh mẽ lấn át tiếng lạch cạch ghe xuồng cọ nhau và giọng tranh cải chí chóe của mấy bà bạn hàng trên mé chợ gần đó tạo thành một âm thanh hỗn độn chói tai. Hành khách từ mọi nơi lũ lượt kéo tới bến đò, lố nhố đi hàng một, lỉnh kỉnh với túi bị, giỏ xách chen nhau xuống tắc ráng . Thong dong với ý định nhường cho bà con, Đan là người xuống tàu sau cùng. Trời quang đảng, thỉnh thoảng hiu hiu cơn gió nhẹ, nước sông buổi sáng dâng đầy khiến hai be chiếc tàu nhỏ chở khẳm gần lé đé mặt nước sông. Khi những chiếc tàu khác từ các nơi vừa lần lượt về cập bến, tắc ráng Thới Đông của chị Hai Khoẻ cũng sắp sửa rời điểm khởi hành. Bé Lanh, con gái chị chừng mười tuổi, dáng vẻ hiền lành, tháo xích sắt tại mũi tàu, giúp mẹ tỏ ra vẻ thạo việc. Đôi tay nhanh nhẹn của Bé cầm lấy chiếc dằm con đẩy mũi tàu dần dần xa bến. Bỗng chốc từ trên bờ, giọng một cô gái trẻ the thé vang lên: - Em đi Cờ Đỏ, chị Hai ơi, chờ em đi với … !Cô gái đến muộn sợ trễ đò, tay nách bao nhựa đồ đạc tay xách giỏ mủ, hớt hơ hớt hải, vẫy nhanh tay gọi chủ tàu để được đi kịp chuyến đò sớm. Mũi tàu đã quay về phía giữa sông trong khi đuôi tàu vừa cách bờ chừng mươi mét nhưng chủ tàu chưa giựt dây khởi động chiếc máy đuôi tôm sơn màu đỏ rực. - Lẹ lên ! - Cho em bước nhờ ! Sau khi xin phép các chủ đò, cô gái với đôi chân thoăn thoắt bước vội trên những chiếc tàu còn đậu tại bến để tới tàu Thới Đông. Đến gần tàu chị Hai Khỏe, định giở chân bước sang, cô gái loay hoay, chân vấp be tàu té ùm xuống nước. - Ối chao ! Làm sao cứu cô ấy ! Bao đồ đạc, giỏ xách văng ra, trôi lềnh bềnh trên mặt sông. Vẻ lo lắng vụt hiện rõ trên khuôn mặt hoảng sợ của mọi người. Sông Ô Môn rộng lớn, nơi bến tàu nước thường sâu, chẳng biết cô gái có biết lội hay không ! Nhưng chưa ai kịp hành động. Đan lên tàu sau cùng ngồi ở xa đằng mũi, vụt hành động phản xạ như một cái máy. Chẳng để ý gì đến đồ đạc của mình, anh vội đứng nhanh dậy, nhảy tỏm xuống nước bơi gấp rút về phía cô gái đang loi ngoi dưới nước. Đan bình tỉnh, áp dụng kỹ thuật cứu người bị nạn trên sông mà anh đã thành thạo từ một khóa thực tập ở trường 1học. Một tay anh dìu cho mặt cô gái ngoi lên khỏi mặt nước, một tay bơi đến nắm chặt be tàu, với trợ lực của chủ tàu, đưa cô gái lên đò. Ghe xuồng khác được bà con bơi nhanh tới tiếp cứu trong lúc trên bờ sông lố nhố người đứng nhìn tỏ ra lo lắng.Mớ hành lý, đồ đạc được vớt lên, và toàn thân cô gái ướt như con chuột mắc nước.Chị Hai Khỏe cùng vài nữ hành khách trên tàu giúp cô gái tạm thay sang quần áo khô của họ rồi mới mở máy khởi hành. • Ngày ấy, sau gần thập niên bỏ trường trốn quân dịch, Đan đi dạy tại các tư thục và trung tâm dạy thêm của một vài bạn học cũ. Một hôm, Đan chợt nghĩ phải đánh bạo xin đi dạy giờ lại với một thầy học cũ dạy Sử đang làm ở nha Trung học. Đan tính ngoan hiền, học chăm, nhất là với các môn xã hội được các thầy thương mến. Thầy còn nhớ Đan và thông cảm hoàn cảnh, hết lòng giúp đỡ anh. Đan háo hức nhận quyết định mới về dạy tại trường Trung học Cờ Đỏ (còn gọi là Thuận Trung), tại một quận lẻ heo hút tận vùng sâu cách xa nhà anh hơn 60 cây số đường bộ. Như một thông lệ, tờ mờ sáng tinh sương ngày chủ nhật mỗi tuần, nồng nã thức dậy sớm, trong lúc mấy đứa em còn ngủ say, Đan gọi xe lôi đạp ra bến xe tại đường Cây Bã Đậu, đón ô tô lên Ô Môn vì dạo ấy chưa có đường bộ dành cho ô tô hay xe buýt chạy suốt từ Cần Thơ lên Cờ Đỏ. Hương lộ từ nhà đến cơ quan xa xôi gập ghềnh không khác nào đường vào đất Thục. Lắm hôm, Đan khởi hành sớm từ Tây Đô bằng xe đò đến Ô Môn rồi phải xuống ngồi tắc ráng đến gần 1 giờ trưa mới tới trường học. Đan hằng nghĩ nghề gõ đầu trẻ thanh đạm đã chọn như một lý tưởng trong đời. Theo kỳ vọng của cha, anh kiên định với lòng mình quyết tâm bám trường lớp với đám học trò ngây thơ hiếu học. Nơi đâu trên đất nước quê hương mình cũng cũng là nhà, không bao giờ Đan ta thán nản lòng: Sông nào chẳng quyện phù sa / Nơi đâu chẳng nước non nhà Việt Nam. sau mỗi lần bất chợt anh được phân công đi dạy xa hoặc chuyển trường. Trời bắt đầu cơn gió nhẹ, một luồng không khí lạnh vụt tạt vào bên trong chiếc tàu chạy bon bon trên con sông rộng, dài thăm thẳm. Lo ngại cô gái bị cảm, Đan lách mình ngồi hướng trên gió che cho cô gái đỡ bị lạnh. Anh mạnh dạn cởi chiếc áo gió đang mặc nhường cho cô. Đợi cô gái thật tỉnh táo, Đan mới bắt đầu hỏi chuyện: - Em về đâu vậy ? Đan chậm rãi chân tình - Em tên là Sơn Sơ-rey, đi bán cốm dẹp và đường thốt lốt tại các tỉnh miền Tây vừa xong trên đường về nhà. Giọng Sơ-rey nhỏ nhẹ. - Đi tàu Thới Đông, như vậy chắc nhà em ở Cờ Đỏ ? - Dạ, nhà em tại Ba Vàm. Ba em vốn người Nam Vang, kéo vó (4) bắt cá lặt vặt mỗi ngày. Má em quê quán tại Trung Quốc, hiện làm ruộng sau nhà. - Kẻ ở đầu sông, kẻ cuối sông, sao ba má em lại được gặp nhau ? Chắc là do cơ duyên, ba má em sum họp nhau tại Việt Nam sau thảm họa cho người Việt tại đất nước chùa Tháp do bọn Pôn Pốt gây ra vào những năm đầu thập niên 1970. Gia đình không khá giả, em phải lặn lội đi buôn bán, chắt mót thêm chút ít tiền giúp ba má nuôi các em đi học. Ngồi ròng rã suốt 7 tiếng đồng hồ, trên ô tô và con tàu nhỏ bềnh bồng trên sông 2nước Đan, có cơ hội trầm tư trước cảnh vật xinh tươi và ruộng đồng bát ngát nơi miền quê hồn hậu mà ở thị thành không hề có được. Sông Ô Môn rộng mênh mông, từ thị trấn luồn qua chiếc cầu đá chênh vênh vững vàng, nhìn từ xa như một cổng trời. Dưới nắng mai, giòng sông tráng lệ nên thơ như giải lụa hồng, mang phù sa màu mở vun bồi thêm đôi bờ san sát nhà cửa vườn tược. Tâm hồn lãng mạn giàu tính nghệ sĩ của Đan lâng lâng với cảm xúc dạt dào mỗi khi anh say đắm nhìn những hàng dừa xanh rũ tóc, những tán xoài um tùm nghiêng nghiêng đổ bóng xuống mặt sông phẳng lặng như tờ. Từng chùm hoa bằng lăng sum sê tím thẩm trong bóng hoàng hôn bãng lãng bao lần khiến anh cảm thấy dào dạt hồn thơ. Chiếc tắc ráng lướt nhanh trên mặt sông rộng như con rắn nước khổng lồ, thỉnh thoảng lại lừ đừ cập bờ đón khách sau khi lách tránh những đống chà rải rác ở triền sông hay những bè lục bình, rau mát trôi lênh đênh trên mặt sông. Đan lầm thầm khẳng định trong tâm trí: Ô Môn quả đẹp tuyệt ! Chả nào nhạc sĩ Triều Dâng đã chẳng cảm xúc sáng tác nên một ca khúc bất hủ để đời (1). • Tiếng máy nổ lạch tạch xen lẫn tiếng nói chuyện xì xào của vài hành khách tạo thành một âm thanh đặc biệt làm nhiều người ngủ gà ngủ gật trên tàu. - Cho tôi đi vô Thới Lai, chị Hai ơi ! Giọng khao khao quen thuộc của anh Bảy Đực, gọi đò vọng lại từ trên bờ sông. - Có người gọi đò bên phải đó con ! Chị hai Khỏe vừa nhắc con gái vừa cầm cần máy tạt sang trái, điều khiến cho tàu tránh bè lục bình rậm rạp, lách qua khỏi đống chà rồi quẹo phải. Trên bờ cao, một người đàn ông quá tuổi trung niên, y phục màu sẫm, thân mình vạm vỡ, đầu quấn gọn búi tóc trong chiếc khăn rằn, tay phải cầm dây kéo theo sau con heo nọc giống vượt cỡ lông dài xám xịt, đôi nanh heo cong nhú ra hai bên mép như hai ngó sen. - Chị Hai cho tàu cập sát chiếc cầu ván để đứa con tôi đi xuống. Ông khách nhắc lại chủ đò. - Hôm nay dẫn quý tử đi làm ăn hướng nào vậy anh Bảy ? Chị Hai Khỏe chào thân mật người đàn ông vốn là hành khách quen thuộc đang đứng trên bờ. - Giữ lời hứa, sáng nay tôi đi bỏ nọc cho chị Ba Chà nhà gần thị trấn, cạnh nhà thờ. Con heo nái của chị Ba đến mùa động đực sung dữ mấy hôm rồi. - Anh đi trên chị Ba Chà chừng nào về nhà, tôi ghé rước anh. Nhân tiện, anh cho nhảy giùm tôi con heo nái. Chị Hai nói tự nhiên. - Vùng này, nhiều bà mê giống heo Mỹ Yorshire lớn con, khỏe mạnh lại năng suất cao của tôi lắm. Vì vậy, sau khi nhảy nọc cho heo chị Ba, tôi còn phải hành quân vài nơi khác nữa dù má bầy trẻ luôn bận rộn việc rẫy bái, rất cần sự có mặt của tôi tại nhà. Bảy Đực trả lời rõ ràng, mặt mày tỉnh bơ. Kiểu nói úp mở têu tếu của chị Hai Khỏe và ông khách bỏ nọc heo giống mới xuống đò khiến nhiều người phải bấm bụng cười thầm. Đò Thới Đông đầy khách và hàng hóa thêm nặng nề. Tới ngả ba sông tại chợ 3Thới Lai, chị Hai rẽ phải chạy một mạch vào kinh Đứng - con kinh đào thẳng băng cắt một vạch dài như miếng thủy tinh, long lanh dưới nắng trưa giữa đôi bờ cao, xanh um những hàng xoài và so đũa của xã Ngôn Thiện. Ngồi yên trên con đò chạy băng băng trên dòng kinh đục ngầu nước phù sa, chốc chốc Đan gặp lại những chiếc thuyền chài, xuồng câu cá rải rác suốt chặng đường dài, và tai Đan được nghe văng vẳng tiếng hót líu lo của chim chìa vôi, giọng rả rích của mấy chú trao trảo vọng lại từ những lùm cây xa sau mái nhà tranh lúp xúp đôi bờ. Mùa nước nổi sau vụ gặt, cánh đồng mênh mông nơi đây hoa điên điển nở rực như rừng mai vàng. Thị trấn Thới Đông nằm cheo leo tại doi đất hội tụ giữa sông Cờ Đỏ và kinh Đứng bốn mùa ngầu đục nước phù sa. Thời gian chuyển mùa, sau vụ gặt đông xuân, những cánh đồng lúa mênh mông yên ả vắng hẵn bóng người nông dân. Đứng trên chiếc cầu gỗ cũ chênh vênh nối kết giữa đôi bờ sông, khách nhàn du dễ trông thấy rõ từng con cá lội trong dòng nước trong veo không bợn chút bụi rêu. Từ nhà lồng chợ hướng về Thới Xuyên, trường trung học nằm bên phải, đối diện với khu nhà hành chính quận lỵ bên kia bờ sông. Những chiều cuối tuần không về nhà, Đan thường thơ thẩn một mình ra đứng trên cầu, tựa thân vào lan can, vọng hướng nhìn về dãy Thất Sơn huyền bí mờ ảo hiện ra sau màn sương mỏng. Đêm thứ bảy cuối tuần - ngày lễ hội Ok - Om - Bok hằng năm của người dân tộc Khmer. Buổi trình diễn văn nghệ tưng bừng được tổ chức tại sân rộng thành Miên gần lẩm lúa ngày trước nay còn đậm dấu ấn với ống khói cao nghệu đứng tần ngần cạnh bờ sông. Đan không về nhà để dự đêm liên hoan văn nghệ do cha Srey mời. Dấu ấn sơ sài của một thành cổ xa xưa chỉ còn lớ mờ phảng phất qua bãi đất rộng rải rác những tảng đá ong lớn sứt mẻ, chất chồng xiêu vẹo giữa hàng cây bạch đàn đứng thẳng không ai biết được trồng tự bao giờ. Cuộc đua ghe ngo hoành tráng, hào hứng mà cha Srey là thành viên, diễn ra sôi nổi từ ban sáng ngoài sông Ô Môn. Tối nay đến phần văn nghệ cây nhà lá vườn do một số gia đình tổ chức có mặt Sơ-rey đóng góp tiết mục. Cha Sơ-rey đại diện đoàn mời Đan tham dự. - A, Sơ-rey . Chào em ! Đêm nay, Sơ-rey có tham gia văn nghệ chứ ? - Dạ, thưa… có. Nàng nhìn sâu vào mắt Đan, nhoẻn miệng cười tươi thắm. - Anh Đan cố dự hết chương trình để cổ vũ, ủng hộ cho em nhé ! - Ô Kê ! Anh sẽ luôn ở bên Sơ-rey để hỗ trợ tinh thần em cho đến hết chương trình. Chưa đến giờ chính thức bắt đầu trình diễn nhưng bà con trẻ già nam nữ và học sinh từ các vùng quê đã lục tục đỗ về xem văn nghệ. Trong bóng chiều dịu nắng ngã dần sang đêm, họ ngồi xếp thành vòng tròn lớn có chừa một cửa ra vào bên trong, chờ xem các nghệ nhân biểu diễn. Sân khấu dã chiến miền quê là bãi đất trống sạch sẽ, bằng phẳng, lún phún cỏ chỉ xanh mượt rất thuận lợi cho diễn viên. Ánh trăng mười sáu hỗ trợ đắc lực cho ánh sáng lờ mờ của bóng đèn điện tròn treo trên cây bạch đàn cùng đống lửa đốt bằng nhánh cây khô cháy bập bùng gần bên, làm rực sáng thêm bầu không khí văn nghệ dân dã miệt vườn. Chương trình văn nghệ biểu diễn tự do. Người tham gia hoàn toàn theo ngẫu4hứng, không cần phải theo tiết mục đăng ký trước, có thể bất chợt tùy hứng vào bất cứ lúc nào miễn sao không gây trở ngại cho người điều khiển chương trình chung của đêm văn nghệ. Người đến xem càng về khuya càng đông, không khí thêm vui nhộn và mỗi lúc một thân thiện như một buổi dạ hội gia đình có ca nhạc. Sau phần trình diễn có tính chuyên môn của nghệ sĩ cốt cán người dân tộc, âm thanh dìu dặt dìu đặt theo tiếng hát lâm thol du dương trữ tình hòa quyện với điệu múa dù kê nhịp nhàng uyển chuyển trong không gian giai điệu ngũ âm huyền hoặc, chơi vơi khiến mọi người cảm thấy tâm hồn mình như được bềnh bồng trong một thế giới thần tiên thoát tục của nghìn muôn năm cũ Sơn Srey, cô gái đầu gà đít vịt lộng lẫy trẻ trung như một hoa hậu, nổi bật giữa những vũ nữ giai nhân khác khiến bao người ngây ngất đắm nhìn. Đôi mắt mi kép trữ tình nổi bật trên khuôn mặt trái xoan làn da trắng mịn, cân bằng bởi chiếc mũi dọc dừa năm trên đôi môi trái tim đỏ thắm tự nhiên là đặc sản nhan sắc hiếm có ở cô gái lai này. Tô điểm cho vẻ mặt dễ thương là rừng tóc đen tuyền buông thỏng, vây phủ xuống đôi bờ vai của pho tượng sống vệ nữ trời cho. - Đẹp như một hoa hậu ! - Thật là một trang tuyệt thế giai nhân! Một thanh niên ăn mặc đàng hoàng tỏ ra văn vẻ. Nam nữ khán giả thanh niên ngồi cạnh Đan tha hồ buột miệng. Đan như bị thôi miên theo động tác tinh tế của Srey: từng cái vẫy nhẹ dịu dàng uyển chuyển của đôi bàn tay ngó sen ngà ngọc, và từng bước nhún duyên dáng nhẹ nhàng của đôi chân thon dài xinh xắn theo giai điệu dập dồn của tiếng nhạc ngũ âm huyền hoặc. Những tràng pháo tay dòn dã nối tiếp thể hiện sự ngưỡng mộ của khán giả kẻ đứng người ngồi, vây quanh sân khấu ngoài trời khi mỗi tiết mục chấm dứt. Vầng trăng tròn vành vạnh đã ngự trên đỉnh đầu mọi người, báo hiệu đêm đã về khuya. Hát dù kê - tiết mục trung tâm của chương trình bắt đầu cho mối hòa đồng thân thiết giữa nghệ sĩ và khán giả. Trong giai điệu ngũ sắp sửa bắt đầu, Đan được mời tham gia với vai trò con trống bên cạnh con mái Sơ-rey trong điệu múa đậm sắc màu dân tộc và tính nhân văn này. Hơn nửa đời làm nghề gõ đầu trẻ, gót chân lãng tử của Đan từng bôn ba tận tỉnh xa và vùng sâu hẻo lánh Trà Vinh, Sóc Trăng, Vị Thanh hay Cờ Đỏ…, nơi đâu Đan cũng chịu làm quen với nhiều từng lớp nhân dân, chuyện trò tâm sự nhau bằng nhiều ngôn ngữ. Đan căm cụi vừa dạy vừa học. Anh không ngại cần cù học cả lời ăn tiếng nói, học múa học ca với bà con các sắc tộc mà anh có dịp tiếp xúc qua thực tiễn cuộc sống ở học đường và xã hội. Dù vậy, khi tham gia vào chương trình văn nghệ đêm nay, bên cạnh Srey, Đan vẫn ngờ nghệch phải nhờ nàng quan tâm hỗ trợ anh trong từng bước đi điệu nhảy theo lời hát của người dân tộc mà anh cảm thấy mình còn lắm bỡ ngỡ. Từ lúc con trống và con mái bắt đầu vờn nhau, những bàn tay nóng bỏng siết chặc nhau qua ánh mắt luyến láy giao tình, Đan đã cùng Sơ-rey đóng kịch một cách nhập vai và xuất thần. - Anh Đan nắm chặc tay em chắc chắn hơn trong những vòng luân vũ để thể hiện sự gắn kết thủy chung trọn đời ! - Đan hãy coi em như là người vợ hiền của anh, như lúc anh ôm cứu em khỏi bị chết đắm từ dòng nước sâu hôm nào vậy bòn ơi ! (2) Sơ-rey thều thào trong hơi thở.5 - On slanh bon ná ! (3) Srey lại nói liên miên không dứt như người say rượu, khiến Đan cảm giác bên anh nàng đã múa quay cuồng, môi mấp máy những lời tình tứ kết tinh từ trái tim cháy bỏng của nàng. - O kôul ! (4). Đan khe khẽ, trìu mến nhìn Sơ-rey ửng hồng thêm đôi má dưới ánh trăng khuya huyền ảo mơ màng. • Sang thu. Cánh đồng lúa Cờ Đỏ bao la biến thành biển nước mênh mông mùa nước nổi. Sương mù sớm chiều giăng giăng mịt mùng như cơn mưa sữa từ thị trấn đến tận rặng bằng lăng, trâm bầu lù mù xa tít. Phòng trọ Đan xin được ở tầng cao trường học, khiến anh cảm thấy thú vị mỗi ngày buổi tin sương được sưởi ấm với ánh bình minh và khi chiều tà ngắm bóng hoàng hôn bãng lãng nhuộm vàng ngọn núi Cấm huyền bí ở phương đoài diệu vợi. Buổi sáng ngày đầu năm học, trở lại trường, Đan lúi húi thu dọn lại phòng trọ mượn của nhà trường. Đan trìu mến nâng niu từng kỷ vật : chiếc khăn lông dày mịn màng màu hoàng yến do Hoài Mộng tặng để anh quấn cổ mỗi khi trời trở lạnh. Anh lại vuốt ve sợi dây lụa màu thổ cẩm do em gái của một người bạn sinh viên tặng làm quai mắc vai vào cây đàn ghi - ta lúc Đan chơi nhạc. Và chiếc cà vạt màu lam với hai chữ ĐS xinh xắn chói lọi, khắng khít như đôi chim âu yếm rỉa lông cho nhau mà Đan luôn mắc vào chiếc áo trắng cũng do Sơ-rey tặng, mỗi khi anh đi lễ hội… Bàng hoàng khôn xiết, không ngờ chỉ mới mấy tháng mà bao biến cố dập dồn như trận giông bão tơi bời đã đi qua cuộc đời thực và cuộc sống tình cảm của Đan. Được trả lại tự do sau mấy tháng bị giam giữ vì tham gia vào phong trào sinh viên yêu nước, Đan trở lại trường lớp với đám học sinh trung học thân yêu và các bạn sinh viên đại học. Nỗi đau cũ còn âm ỉ, Đan lại tiếp tục chịu đau đớn nhận thêm một vết thương lòng. - Làm thế nào, bằng mọi giá, em cũng phải hy sinh để cứu mẹ em. Sức ba em có hạn trước bệnh dữ suy thận của mẹ. Một mình ba em không sao xoay trở nỗi tình hình. Srey vừa chân thành tâm sự vừa mạnh dạn khẳng định với Đan. - Em vẫn nhớ Đan và mãi mãi yêu anh dù chúng mình không được đoàn tụ bên nhau như chồng vợ trong đời, Srey lầm thầm trong tâm trí. Ta yêu nhau mãi mãi, đôi tâm hồn ta gắn kết bền chặc nhau với mối tình cao thượng ! - Bon slanh on đời đời ! (Anh cũng mãi mãi yêu em !) - Em cũng không bao giờ quên anh ! - Som le (5) Bốn mắt đỏ hoe, đẫm lệ nhìn nhau không chớp. Rời bãi đậu, chuyến xe Nhơn Hòa cuối ngày từ từ lăn bánh về hướng bắc Cần Thơ. Thẩn thờ, còn lại một mình, Đan bâng khuâng hồi tưởng: Nhạc ngũ âm, buồn như tiếng khóc/ Gợi bao kỷ niệm buổi dù kê.Anh làm con trống, em con mái/ Múa hát quay cuồng quá nửa khuya. (Kiên Giang). Chiều buông vội. Vườn cây hai bên đường, loáng thoáng từng chiếc lá xoài, lá mận lác đác rụng theo cơn gió se lạnh thỉnh thoảng từ sông Hậu xào xạc thổi về. Ngồi lặng yên cạnh người chồng ngoại luống tuổi phương xa trên chuyến xe chiều muộn, Srey cảm thấy tê tái, cõi lòng như đã chết lịm tự bao giờ. Tâm trạng rã rời, Sơ-rey mệt mỏi ngoái nhìn lại lần cuối bóng Đan mờ dần, còn đứng như pho tượng gỗ bất động bên vệ 6đường vắng dần xe cộ và khách bộ hành. Một mình còn lại, bất giác, Đan thì thầm: Đời ta là một con tàu suốt/ Vạn lý đường xa chẳng một ga. 22. 02. 2 020 Q. G (1) Chiều trên sông Ô Môn - nhạc Triều Dâng (2) Bòn ơi ! : Anh ơi (3) On slanh bon ná ! : Em yêu anh lắm ! (4) O kôul ! : Cám ơn em ! (5) Som le ! : Tạm biệt !Quỳnh Giao SƯƠNG TRẮNG THỚI ĐÔNG Truyện ngắn Buổi sáng xuân, hạt nắng long lanh tỏa rộng bầu trời xanh ngọc bích, lung linh mặt sông Hậu bát ngát mênh mông. Như mọi ngày, bến đò Ô Môn nằm bên bờ sông sáng chiều tấp nập xuồng ghe, hành khách và người đi chợ không khác gì cảnh chợ nổi miệt vườn. - Bà con, ai đi Thới Lai, Cờ Đỏ xuống tàu. Giờ khởi hành đến rồi ! Giọng nói khàn khàn, dõng dạc của chị Hai Khỏe - chủ tàu Thới Đông mập mạp, tuổi sồn sồn, ngồi sau lái tàu cạnh chiếc máy đuôi tôm, thông báo cùng hành khách đứng trên bờ. Tiếng chị oang oang mạnh mẽ lấn át tiếng lạch cạch ghe xuồng cọ nhau và giọng tranh cải chí chóe của mấy bà bạn hàng trên mé chợ gần đó tạo thành một âm thanh hỗn độn chói tai. Hành khách từ mọi nơi lũ lượt kéo tới bến đò, lố nhố đi hàng một, lỉnh kỉnh với túi bị, giỏ xách chen nhau xuống tắc ráng . Thong dong với ý định nhường cho bà con, Đan là người xuống tàu sau cùng. Trời quang đảng, thỉnh thoảng hiu hiu cơn gió nhẹ, nước sông buổi sáng dâng đầy khiến hai be chiếc tàu nhỏ chở khẳm gần lé đé mặt nước sông. Khi những chiếc tàu khác từ các nơi vừa lần lượt về cập bến, tắc ráng Thới Đông của chị Hai Khoẻ cũng sắp sửa rời điểm khởi hành. Bé Lanh, con gái chị chừng mười tuổi, dáng vẻ hiền lành, tháo xích sắt tại mũi tàu, giúp mẹ tỏ ra vẻ thạo việc. Đôi tay nhanh nhẹn của Bé cầm lấy chiếc dằm con đẩy mũi tàu dần dần xa bến. Bỗng chốc từ trên bờ, giọng một cô gái trẻ the thé vang lên: - Em đi Cờ Đỏ, chị Hai ơi, chờ em đi với … !Cô gái đến muộn sợ trễ đò, tay nách bao nhựa đồ đạc tay xách giỏ mủ, hớt hơ hớt hải, vẫy nhanh tay gọi chủ tàu để được đi kịp chuyến đò sớm. Mũi tàu đã quay về phía giữa sông trong khi đuôi tàu vừa cách bờ chừng mươi mét nhưng chủ tàu chưa giựt dây khởi động chiếc máy đuôi tôm sơn màu đỏ rực. - Lẹ lên ! - Cho em bước nhờ ! Sau khi xin phép các chủ đò, cô gái với đôi chân thoăn thoắt bước vội trên những chiếc tàu còn đậu tại bến để tới tàu Thới Đông. Đến gần tàu chị Hai Khỏe, định giở chân bước sang, cô gái loay hoay, chân vấp be tàu té ùm xuống nước. - Ối chao ! Làm sao cứu cô ấy ! Bao đồ đạc, giỏ xách văng ra, trôi lềnh bềnh trên mặt sông. Vẻ lo lắng vụt hiện rõ trên khuôn mặt hoảng sợ của mọi người. Sông Ô Môn rộng lớn, nơi bến tàu nước thường sâu, chẳng biết cô gái có biết lội hay không ! Nhưng chưa ai kịp hành động. Đan lên tàu sau cùng ngồi ở xa đằng mũi, vụt hành động phản xạ như một cái máy. Chẳng để ý gì đến đồ đạc của mình, anh vội đứng nhanh dậy, nhảy tỏm xuống nước bơi gấp rút về phía cô gái đang loi ngoi dưới nước. Đan bình tỉnh, áp dụng kỹ thuật cứu người bị nạn trên sông mà anh đã thành thạo từ một khóa thực tập ở trường 1học. Một tay anh dìu cho mặt cô gái ngoi lên khỏi mặt nước, một tay bơi đến nắm chặt be tàu, với trợ lực của chủ tàu, đưa cô gái lên đò. Ghe xuồng khác được bà con bơi nhanh tới tiếp cứu trong lúc trên bờ sông lố nhố người đứng nhìn tỏ ra lo lắng.Mớ hành lý, đồ đạc được vớt lên, và toàn thân cô gái ướt như con chuột mắc nước.Chị Hai Khỏe cùng vài nữ hành khách trên tàu giúp cô gái tạm thay sang quần áo khô của họ rồi mới mở máy khởi hành. • Ngày ấy, sau gần thập niên bỏ trường trốn quân dịch, Đan đi dạy tại các tư thục và trung tâm dạy thêm của một vài bạn học cũ. Một hôm, Đan chợt nghĩ phải đánh bạo xin đi dạy giờ lại với một thầy học cũ dạy Sử đang làm ở nha Trung học. Đan tính ngoan hiền, học chăm, nhất là với các môn xã hội được các thầy thương mến. Thầy còn nhớ Đan và thông cảm hoàn cảnh, hết lòng giúp đỡ anh. Đan háo hức nhận quyết định mới về dạy tại trường Trung học Cờ Đỏ (còn gọi là Thuận Trung), tại một quận lẻ heo hút tận vùng sâu cách xa nhà anh hơn 60 cây số đường bộ. Như một thông lệ, tờ mờ sáng tinh sương ngày chủ nhật mỗi tuần, nồng nã thức dậy sớm, trong lúc mấy đứa em còn ngủ say, Đan gọi xe lôi đạp ra bến xe tại đường Cây Bã Đậu, đón ô tô lên Ô Môn vì dạo ấy chưa có đường bộ dành cho ô tô hay xe buýt chạy suốt từ Cần Thơ lên Cờ Đỏ. Hương lộ từ nhà đến cơ quan xa xôi gập ghềnh không khác nào đường vào đất Thục. Lắm hôm, Đan khởi hành sớm từ Tây Đô bằng xe đò đến Ô Môn rồi phải xuống ngồi tắc ráng đến gần 1 giờ trưa mới tới trường học. Đan hằng nghĩ nghề gõ đầu trẻ thanh đạm đã chọn như một lý tưởng trong đời. Theo kỳ vọng của cha, anh kiên định với lòng mình quyết tâm bám trường lớp với đám học trò ngây thơ hiếu học. Nơi đâu trên đất nước quê hương mình cũng cũng là nhà, không bao giờ Đan ta thán nản lòng: Sông nào chẳng quyện phù sa / Nơi đâu chẳng nước non nhà Việt Nam. sau mỗi lần bất chợt anh được phân công đi dạy xa hoặc chuyển trường. Trời bắt đầu cơn gió nhẹ, một luồng không khí lạnh vụt tạt vào bên trong chiếc tàu chạy bon bon trên con sông rộng, dài thăm thẳm. Lo ngại cô gái bị cảm, Đan lách mình ngồi hướng trên gió che cho cô gái đỡ bị lạnh. Anh mạnh dạn cởi chiếc áo gió đang mặc nhường cho cô. Đợi cô gái thật tỉnh táo, Đan mới bắt đầu hỏi chuyện: - Em về đâu vậy ? Đan chậm rãi chân tình - Em tên là Sơn Sơ-rey, đi bán cốm dẹp và đường thốt lốt tại các tỉnh miền Tây vừa xong trên đường về nhà. Giọng Sơ-rey nhỏ nhẹ. - Đi tàu Thới Đông, như vậy chắc nhà em ở Cờ Đỏ ? - Dạ, nhà em tại Ba Vàm. Ba em vốn người Nam Vang, kéo vó (4) bắt cá lặt vặt mỗi ngày. Má em quê quán tại Trung Quốc, hiện làm ruộng sau nhà. - Kẻ ở đầu sông, kẻ cuối sông, sao ba má em lại được gặp nhau ? Chắc là do cơ duyên, ba má em sum họp nhau tại Việt Nam sau thảm họa cho người Việt tại đất nước chùa Tháp do bọn Pôn Pốt gây ra vào những năm đầu thập niên 1970. Gia đình không khá giả, em phải lặn lội đi buôn bán, chắt mót thêm chút ít tiền giúp ba má nuôi các em đi học. Ngồi ròng rã suốt 7 tiếng đồng hồ, trên ô tô và con tàu nhỏ bềnh bồng trên sông 2nước Đan, có cơ hội trầm tư trước cảnh vật xinh tươi và ruộng đồng bát ngát nơi miền quê hồn hậu mà ở thị thành không hề có được. Sông Ô Môn rộng mênh mông, từ thị trấn luồn qua chiếc cầu đá chênh vênh vững vàng, nhìn từ xa như một cổng trời. Dưới nắng mai, giòng sông tráng lệ nên thơ như giải lụa hồng, mang phù sa màu mở vun bồi thêm đôi bờ san sát nhà cửa vườn tược. Tâm hồn lãng mạn giàu tính nghệ sĩ của Đan lâng lâng với cảm xúc dạt dào mỗi khi anh say đắm nhìn những hàng dừa xanh rũ tóc, những tán xoài um tùm nghiêng nghiêng đổ bóng xuống mặt sông phẳng lặng như tờ. Từng chùm hoa bằng lăng sum sê tím thẩm trong bóng hoàng hôn bãng lãng bao lần khiến anh cảm thấy dào dạt hồn thơ. Chiếc tắc ráng lướt nhanh trên mặt sông rộng như con rắn nước khổng lồ, thỉnh thoảng lại lừ đừ cập bờ đón khách sau khi lách tránh những đống chà rải rác ở triền sông hay những bè lục bình, rau mát trôi lênh đênh trên mặt sông. Đan lầm thầm khẳng định trong tâm trí: Ô Môn quả đẹp tuyệt ! Chả nào nhạc sĩ Triều Dâng đã chẳng cảm xúc sáng tác nên một ca khúc bất hủ để đời (1). • Tiếng máy nổ lạch tạch xen lẫn tiếng nói chuyện xì xào của vài hành khách tạo thành một âm thanh đặc biệt làm nhiều người ngủ gà ngủ gật trên tàu. - Cho tôi đi vô Thới Lai, chị Hai ơi ! Giọng khao khao quen thuộc của anh Bảy Đực, gọi đò vọng lại từ trên bờ sông. - Có người gọi đò bên phải đó con ! Chị hai Khỏe vừa nhắc con gái vừa cầm cần máy tạt sang trái, điều khiến cho tàu tránh bè lục bình rậm rạp, lách qua khỏi đống chà rồi quẹo phải. Trên bờ cao, một người đàn ông quá tuổi trung niên, y phục màu sẫm, thân mình vạm vỡ, đầu quấn gọn búi tóc trong chiếc khăn rằn, tay phải cầm dây kéo theo sau con heo nọc giống vượt cỡ lông dài xám xịt, đôi nanh heo cong nhú ra hai bên mép như hai ngó sen. - Chị Hai cho tàu cập sát chiếc cầu ván để đứa con tôi đi xuống. Ông khách nhắc lại chủ đò. - Hôm nay dẫn quý tử đi làm ăn hướng nào vậy anh Bảy ? Chị Hai Khỏe chào thân mật người đàn ông vốn là hành khách quen thuộc đang đứng trên bờ. - Giữ lời hứa, sáng nay tôi đi bỏ nọc cho chị Ba Chà nhà gần thị trấn, cạnh nhà thờ. Con heo nái của chị Ba đến mùa động đực sung dữ mấy hôm rồi. - Anh đi trên chị Ba Chà chừng nào về nhà, tôi ghé rước anh. Nhân tiện, anh cho nhảy giùm tôi con heo nái. Chị Hai nói tự nhiên. - Vùng này, nhiều bà mê giống heo Mỹ Yorshire lớn con, khỏe mạnh lại năng suất cao của tôi lắm. Vì vậy, sau khi nhảy nọc cho heo chị Ba, tôi còn phải hành quân vài nơi khác nữa dù má bầy trẻ luôn bận rộn việc rẫy bái, rất cần sự có mặt của tôi tại nhà. Bảy Đực trả lời rõ ràng, mặt mày tỉnh bơ. Kiểu nói úp mở têu tếu của chị Hai Khỏe và ông khách bỏ nọc heo giống mới xuống đò khiến nhiều người phải bấm bụng cười thầm. Đò Thới Đông đầy khách và hàng hóa thêm nặng nề. Tới ngả ba sông tại chợ 3Thới Lai, chị Hai rẽ phải chạy một mạch vào kinh Đứng - con kinh đào thẳng băng cắt một vạch dài như miếng thủy tinh, long lanh dưới nắng trưa giữa đôi bờ cao, xanh um những hàng xoài và so đũa của xã Ngôn Thiện. Ngồi yên trên con đò chạy băng băng trên dòng kinh đục ngầu nước phù sa, chốc chốc Đan gặp lại những chiếc thuyền chài, xuồng câu cá rải rác suốt chặng đường dài, và tai Đan được nghe văng vẳng tiếng hót líu lo của chim chìa vôi, giọng rả rích của mấy chú trao trảo vọng lại từ những lùm cây xa sau mái nhà tranh lúp xúp đôi bờ. Mùa nước nổi sau vụ gặt, cánh đồng mênh mông nơi đây hoa điên điển nở rực như rừng mai vàng. Thị trấn Thới Đông nằm cheo leo tại doi đất hội tụ giữa sông Cờ Đỏ và kinh Đứng bốn mùa ngầu đục nước phù sa. Thời gian chuyển mùa, sau vụ gặt đông xuân, những cánh đồng lúa mênh mông yên ả vắng hẵn bóng người nông dân. Đứng trên chiếc cầu gỗ cũ chênh vênh nối kết giữa đôi bờ sông, khách nhàn du dễ trông thấy rõ từng con cá lội trong dòng nước trong veo không bợn chút bụi rêu. Từ nhà lồng chợ hướng về Thới Xuyên, trường trung học nằm bên phải, đối diện với khu nhà hành chính quận lỵ bên kia bờ sông. Những chiều cuối tuần không về nhà, Đan thường thơ thẩn một mình ra đứng trên cầu, tựa thân vào lan can, vọng hướng nhìn về dãy Thất Sơn huyền bí mờ ảo hiện ra sau màn sương mỏng. Đêm thứ bảy cuối tuần - ngày lễ hội Ok - Om - Bok hằng năm của người dân tộc Khmer. Buổi trình diễn văn nghệ tưng bừng được tổ chức tại sân rộng thành Miên gần lẩm lúa ngày trước nay còn đậm dấu ấn với ống khói cao nghệu đứng tần ngần cạnh bờ sông. Đan không về nhà để dự đêm liên hoan văn nghệ do cha Srey mời. Dấu ấn sơ sài của một thành cổ xa xưa chỉ còn lớ mờ phảng phất qua bãi đất rộng rải rác những tảng đá ong lớn sứt mẻ, chất chồng xiêu vẹo giữa hàng cây bạch đàn đứng thẳng không ai biết được trồng tự bao giờ. Cuộc đua ghe ngo hoành tráng, hào hứng mà cha Srey là thành viên, diễn ra sôi nổi từ ban sáng ngoài sông Ô Môn. Tối nay đến phần văn nghệ cây nhà lá vườn do một số gia đình tổ chức có mặt Sơ-rey đóng góp tiết mục. Cha Sơ-rey đại diện đoàn mời Đan tham dự. - A, Sơ-rey . Chào em ! Đêm nay, Sơ-rey có tham gia văn nghệ chứ ? - Dạ, thưa… có. Nàng nhìn sâu vào mắt Đan, nhoẻn miệng cười tươi thắm. - Anh Đan cố dự hết chương trình để cổ vũ, ủng hộ cho em nhé ! - Ô Kê ! Anh sẽ luôn ở bên Sơ-rey để hỗ trợ tinh thần em cho đến hết chương trình. Chưa đến giờ chính thức bắt đầu trình diễn nhưng bà con trẻ già nam nữ và học sinh từ các vùng quê đã lục tục đỗ về xem văn nghệ. Trong bóng chiều dịu nắng ngã dần sang đêm, họ ngồi xếp thành vòng tròn lớn có chừa một cửa ra vào bên trong, chờ xem các nghệ nhân biểu diễn. Sân khấu dã chiến miền quê là bãi đất trống sạch sẽ, bằng phẳng, lún phún cỏ chỉ xanh mượt rất thuận lợi cho diễn viên. Ánh trăng mười sáu hỗ trợ đắc lực cho ánh sáng lờ mờ của bóng đèn điện tròn treo trên cây bạch đàn cùng đống lửa đốt bằng nhánh cây khô cháy bập bùng gần bên, làm rực sáng thêm bầu không khí văn nghệ dân dã miệt vườn. Chương trình văn nghệ biểu diễn tự do. Người tham gia hoàn toàn theo ngẫu4hứng, không cần phải theo tiết mục đăng ký trước, có thể bất chợt tùy hứng vào bất cứ lúc nào miễn sao không gây trở ngại cho người điều khiển chương trình chung của đêm văn nghệ. Người đến xem càng về khuya càng đông, không khí thêm vui nhộn và mỗi lúc một thân thiện như một buổi dạ hội gia đình có ca nhạc. Sau phần trình diễn có tính chuyên môn của nghệ sĩ cốt cán người dân tộc, âm thanh dìu dặt dìu đặt theo tiếng hát lâm thol du dương trữ tình hòa quyện với điệu múa dù kê nhịp nhàng uyển chuyển trong không gian giai điệu ngũ âm huyền hoặc, chơi vơi khiến mọi người cảm thấy tâm hồn mình như được bềnh bồng trong một thế giới thần tiên thoát tục của nghìn muôn năm cũ Sơn Srey, cô gái đầu gà đít vịt lộng lẫy trẻ trung như một hoa hậu, nổi bật giữa những vũ nữ giai nhân khác khiến bao người ngây ngất đắm nhìn. Đôi mắt mi kép trữ tình nổi bật trên khuôn mặt trái xoan làn da trắng mịn, cân bằng bởi chiếc mũi dọc dừa năm trên đôi môi trái tim đỏ thắm tự nhiên là đặc sản nhan sắc hiếm có ở cô gái lai này. Tô điểm cho vẻ mặt dễ thương là rừng tóc đen tuyền buông thỏng, vây phủ xuống đôi bờ vai của pho tượng sống vệ nữ trời cho. - Đẹp như một hoa hậu ! - Thật là một trang tuyệt thế giai nhân! Một thanh niên ăn mặc đàng hoàng tỏ ra văn vẻ. Nam nữ khán giả thanh niên ngồi cạnh Đan tha hồ buột miệng. Đan như bị thôi miên theo động tác tinh tế của Srey: từng cái vẫy nhẹ dịu dàng uyển chuyển của đôi bàn tay ngó sen ngà ngọc, và từng bước nhún duyên dáng nhẹ nhàng của đôi chân thon dài xinh xắn theo giai điệu dập dồn của tiếng nhạc ngũ âm huyền hoặc. Những tràng pháo tay dòn dã nối tiếp thể hiện sự ngưỡng mộ của khán giả kẻ đứng người ngồi, vây quanh sân khấu ngoài trời khi mỗi tiết mục chấm dứt. Vầng trăng tròn vành vạnh đã ngự trên đỉnh đầu mọi người, báo hiệu đêm đã về khuya. Hát dù kê - tiết mục trung tâm của chương trình bắt đầu cho mối hòa đồng thân thiết giữa nghệ sĩ và khán giả. Trong giai điệu ngũ sắp sửa bắt đầu, Đan được mời tham gia với vai trò con trống bên cạnh con mái Sơ-rey trong điệu múa đậm sắc màu dân tộc và tính nhân văn này. Hơn nửa đời làm nghề gõ đầu trẻ, gót chân lãng tử của Đan từng bôn ba tận tỉnh xa và vùng sâu hẻo lánh Trà Vinh, Sóc Trăng, Vị Thanh hay Cờ Đỏ…, nơi đâu Đan cũng chịu làm quen với nhiều từng lớp nhân dân, chuyện trò tâm sự nhau bằng nhiều ngôn ngữ. Đan căm cụi vừa dạy vừa học. Anh không ngại cần cù học cả lời ăn tiếng nói, học múa học ca với bà con các sắc tộc mà anh có dịp tiếp xúc qua thực tiễn cuộc sống ở học đường và xã hội. Dù vậy, khi tham gia vào chương trình văn nghệ đêm nay, bên cạnh Srey, Đan vẫn ngờ nghệch phải nhờ nàng quan tâm hỗ trợ anh trong từng bước đi điệu nhảy theo lời hát của người dân tộc mà anh cảm thấy mình còn lắm bỡ ngỡ. Từ lúc con trống và con mái bắt đầu vờn nhau, những bàn tay nóng bỏng siết chặc nhau qua ánh mắt luyến láy giao tình, Đan đã cùng Sơ-rey đóng kịch một cách nhập vai và xuất thần. - Anh Đan nắm chặc tay em chắc chắn hơn trong những vòng luân vũ để thể hiện sự gắn kết thủy chung trọn đời ! - Đan hãy coi em như là người vợ hiền của anh, như lúc anh ôm cứu em khỏi bị chết đắm từ dòng nước sâu hôm nào vậy bòn ơi ! (2) Sơ-rey thều thào trong hơi thở.5 - On slanh bon ná ! (3) Srey lại nói liên miên không dứt như người say rượu, khiến Đan cảm giác bên anh nàng đã múa quay cuồng, môi mấp máy những lời tình tứ kết tinh từ trái tim cháy bỏng của nàng. - O kôul ! (4). Đan khe khẽ, trìu mến nhìn Sơ-rey ửng hồng thêm đôi má dưới ánh trăng khuya huyền ảo mơ màng. • Sang thu. Cánh đồng lúa Cờ Đỏ bao la biến thành biển nước mênh mông mùa nước nổi. Sương mù sớm chiều giăng giăng mịt mùng như cơn mưa sữa từ thị trấn đến tận rặng bằng lăng, trâm bầu lù mù xa tít. Phòng trọ Đan xin được ở tầng cao trường học, khiến anh cảm thấy thú vị mỗi ngày buổi tin sương được sưởi ấm với ánh bình minh và khi chiều tà ngắm bóng hoàng hôn bãng lãng nhuộm vàng ngọn núi Cấm huyền bí ở phương đoài diệu vợi. Buổi sáng ngày đầu năm học, trở lại trường, Đan lúi húi thu dọn lại phòng trọ mượn của nhà trường. Đan trìu mến nâng niu từng kỷ vật : chiếc khăn lông dày mịn màng màu hoàng yến do Hoài Mộng tặng để anh quấn cổ mỗi khi trời trở lạnh. Anh lại vuốt ve sợi dây lụa màu thổ cẩm do em gái của một người bạn sinh viên tặng làm quai mắc vai vào cây đàn ghi - ta lúc Đan chơi nhạc. Và chiếc cà vạt màu lam với hai chữ ĐS xinh xắn chói lọi, khắng khít như đôi chim âu yếm rỉa lông cho nhau mà Đan luôn mắc vào chiếc áo trắng cũng do Sơ-rey tặng, mỗi khi anh đi lễ hội… Bàng hoàng khôn xiết, không ngờ chỉ mới mấy tháng mà bao biến cố dập dồn như trận giông bão tơi bời đã đi qua cuộc đời thực và cuộc sống tình cảm của Đan. Được trả lại tự do sau mấy tháng bị giam giữ vì tham gia vào phong trào sinh viên yêu nước, Đan trở lại trường lớp với đám học sinh trung học thân yêu và các bạn sinh viên đại học. Nỗi đau cũ còn âm ỉ, Đan lại tiếp tục chịu đau đớn nhận thêm một vết thương lòng. - Làm thế nào, bằng mọi giá, em cũng phải hy sinh để cứu mẹ em. Sức ba em có hạn trước bệnh dữ suy thận của mẹ. Một mình ba em không sao xoay trở nỗi tình hình. Srey vừa chân thành tâm sự vừa mạnh dạn khẳng định với Đan. - Em vẫn nhớ Đan và mãi mãi yêu anh dù chúng mình không được đoàn tụ bên nhau như chồng vợ trong đời, Srey lầm thầm trong tâm trí. Ta yêu nhau mãi mãi, đôi tâm hồn ta gắn kết bền chặc nhau với mối tình cao thượng ! - Bon slanh on đời đời ! (Anh cũng mãi mãi yêu em !) - Em cũng không bao giờ quên anh ! - Som le (5) Bốn mắt đỏ hoe, đẫm lệ nhìn nhau không chớp. Rời bãi đậu, chuyến xe Nhơn Hòa cuối ngày từ từ lăn bánh về hướng bắc Cần Thơ. Thẩn thờ, còn lại một mình, Đan bâng khuâng hồi tưởng: Nhạc ngũ âm, buồn như tiếng khóc/ Gợi bao kỷ niệm buổi dù kê.Anh làm con trống, em con mái/ Múa hát quay cuồng quá nửa khuya. (Kiên Giang). Chiều buông vội. Vườn cây hai bên đường, loáng thoáng từng chiếc lá xoài, lá mận lác đác rụng theo cơn gió se lạnh thỉnh thoảng từ sông Hậu xào xạc thổi về. Ngồi lặng yên cạnh người chồng ngoại luống tuổi phương xa trên chuyến xe chiều muộn, Srey cảm thấy tê tái, cõi lòng như đã chết lịm tự bao giờ. Tâm trạng rã rời, Sơ-rey mệt mỏi ngoái nhìn lại lần cuối bóng Đan mờ dần, còn đứng như pho tượng gỗ bất động bên vệ 6đường vắng dần xe cộ và khách bộ hành. Một mình còn lại, bất giác, Đan thì thầm: Đời ta là một con tàu suốt/ Vạn lý đường xa chẳng một ga. 22. 02. 2 020 Q. G (1) Chiều trên sông Ô Môn - nhạc Triều Dâng (2) Bòn ơi ! : Anh ơi (3) On slanh bon ná ! : Em yêu anh lắm ! (4) O kôul ! : Cám ơn em ! (5) Som le ! : Tạm biệt !Quỳnh Giao SƯƠNG TRẮNG THỚI ĐÔNG Truyện ngắn Buổi sáng xuân, hạt nắng long lanh tỏa rộng bầu trời xanh ngọc bích, lung linh mặt sông Hậu bát ngát mênh mông. Như mọi ngày, bến đò Ô Môn nằm bên bờ sông sáng chiều tấp nập xuồng ghe, hành khách và người đi chợ không khác gì cảnh chợ nổi miệt vườn. - Bà con, ai đi Thới Lai, Cờ Đỏ xuống tàu. Giờ khởi hành đến rồi ! Giọng nói khàn khàn, dõng dạc của chị Hai Khỏe - chủ tàu Thới Đông mập mạp, tuổi sồn sồn, ngồi sau lái tàu cạnh chiếc máy đuôi tôm, thông báo cùng hành khách đứng trên bờ. Tiếng chị oang oang mạnh mẽ lấn át tiếng lạch cạch ghe xuồng cọ nhau và giọng tranh cải chí chóe của mấy bà bạn hàng trên mé chợ gần đó tạo thành một âm thanh hỗn độn chói tai. Hành khách từ mọi nơi lũ lượt kéo tới bến đò, lố nhố đi hàng một, lỉnh kỉnh với túi bị, giỏ xách chen nhau xuống tắc ráng . Thong dong với ý định nhường cho bà con, Đan là người xuống tàu sau cùng. Trời quang đảng, thỉnh thoảng hiu hiu cơn gió nhẹ, nước sông buổi sáng dâng đầy khiến hai be chiếc tàu nhỏ chở khẳm gần lé đé mặt nước sông. Khi những chiếc tàu khác từ các nơi vừa lần lượt về cập bến, tắc ráng Thới Đông của chị Hai Khoẻ cũng sắp sửa rời điểm khởi hành. Bé Lanh, con gái chị chừng mười tuổi, dáng vẻ hiền lành, tháo xích sắt tại mũi tàu, giúp mẹ tỏ ra vẻ thạo việc. Đôi tay nhanh nhẹn của Bé cầm lấy chiếc dằm con đẩy mũi tàu dần dần xa bến. Bỗng chốc từ trên bờ, giọng một cô gái trẻ the thé vang lên: - Em đi Cờ Đỏ, chị Hai ơi, chờ em đi với … !Cô gái đến muộn sợ trễ đò, tay nách bao nhựa đồ đạc tay xách giỏ mủ, hớt hơ hớt hải, vẫy nhanh tay gọi chủ tàu để được đi kịp chuyến đò sớm. Mũi tàu đã quay về phía giữa sông trong khi đuôi tàu vừa cách bờ chừng mươi mét nhưng chủ tàu chưa giựt dây khởi động chiếc máy đuôi tôm sơn màu đỏ rực. - Lẹ lên ! - Cho em bước nhờ ! Sau khi xin phép các chủ đò, cô gái với đôi chân thoăn thoắt bước vội trên những chiếc tàu còn đậu tại bến để tới tàu Thới Đông. Đến gần tàu chị Hai Khỏe, định giở chân bước sang, cô gái loay hoay, chân vấp be tàu té ùm xuống nước. - Ối chao ! Làm sao cứu cô ấy ! Bao đồ đạc, giỏ xách văng ra, trôi lềnh bềnh trên mặt sông. Vẻ lo lắng vụt hiện rõ trên khuôn mặt hoảng sợ của mọi người. Sông Ô Môn rộng lớn, nơi bến tàu nước thường sâu, chẳng biết cô gái có biết lội hay không ! Nhưng chưa ai kịp hành động. Đan lên tàu sau cùng ngồi ở xa đằng mũi, vụt hành động phản xạ như một cái máy. Chẳng để ý gì đến đồ đạc của mình, anh vội đứng nhanh dậy, nhảy tỏm xuống nước bơi gấp rút về phía cô gái đang loi ngoi dưới nước. Đan bình tỉnh, áp dụng kỹ thuật cứu người bị nạn trên sông mà anh đã thành thạo từ một khóa thực tập ở trường 1học. Một tay anh dìu cho mặt cô gái ngoi lên khỏi mặt nước, một tay bơi đến nắm chặt be tàu, với trợ lực của chủ tàu, đưa cô gái lên đò. Ghe xuồng khác được bà con bơi nhanh tới tiếp cứu trong lúc trên bờ sông lố nhố người đứng nhìn tỏ ra lo lắng.Mớ hành lý, đồ đạc được vớt lên, và toàn thân cô gái ướt như con chuột mắc nước.Chị Hai Khỏe cùng vài nữ hành khách trên tàu giúp cô gái tạm thay sang quần áo khô của họ rồi mới mở máy khởi hành. • Ngày ấy, sau gần thập niên bỏ trường trốn quân dịch, Đan đi dạy tại các tư thục và trung tâm dạy thêm của một vài bạn học cũ. Một hôm, Đan chợt nghĩ phải đánh bạo xin đi dạy giờ lại với một thầy học cũ dạy Sử đang làm ở nha Trung học. Đan tính ngoan hiền, học chăm, nhất là với các môn xã hội được các thầy thương mến. Thầy còn nhớ Đan và thông cảm hoàn cảnh, hết lòng giúp đỡ anh. Đan háo hức nhận quyết định mới về dạy tại trường Trung học Cờ Đỏ (còn gọi là Thuận Trung), tại một quận lẻ heo hút tận vùng sâu cách xa nhà anh hơn 60 cây số đường bộ. Như một thông lệ, tờ mờ sáng tinh sương ngày chủ nhật mỗi tuần, nồng nã thức dậy sớm, trong lúc mấy đứa em còn ngủ say, Đan gọi xe lôi đạp ra bến xe tại đường Cây Bã Đậu, đón ô tô lên Ô Môn vì dạo ấy chưa có đường bộ dành cho ô tô hay xe buýt chạy suốt từ Cần Thơ lên Cờ Đỏ. Hương lộ từ nhà đến cơ quan xa xôi gập ghềnh không khác nào đường vào đất Thục. Lắm hôm, Đan khởi hành sớm từ Tây Đô bằng xe đò đến Ô Môn rồi phải xuống ngồi tắc ráng đến gần 1 giờ trưa mới tới trường học. Đan hằng nghĩ nghề gõ đầu trẻ thanh đạm đã chọn như một lý tưởng trong đời. Theo kỳ vọng của cha, anh kiên định với lòng mình quyết tâm bám trường lớp với đám học trò ngây thơ hiếu học. Nơi đâu trên đất nước quê hương mình cũng cũng là nhà, không bao giờ Đan ta thán nản lòng: Sông nào chẳng quyện phù sa / Nơi đâu chẳng nước non nhà Việt Nam. sau mỗi lần bất chợt anh được phân công đi dạy xa hoặc chuyển trường. Trời bắt đầu cơn gió nhẹ, một luồng không khí lạnh vụt tạt vào bên trong chiếc tàu chạy bon bon trên con sông rộng, dài thăm thẳm. Lo ngại cô gái bị cảm, Đan lách mình ngồi hướng trên gió che cho cô gái đỡ bị lạnh. Anh mạnh dạn cởi chiếc áo gió đang mặc nhường cho cô. Đợi cô gái thật tỉnh táo, Đan mới bắt đầu hỏi chuyện: - Em về đâu vậy ? Đan chậm rãi chân tình - Em tên là Sơn Sơ-rey, đi bán cốm dẹp và đường thốt lốt tại các tỉnh miền Tây vừa xong trên đường về nhà. Giọng Sơ-rey nhỏ nhẹ. - Đi tàu Thới Đông, như vậy chắc nhà em ở Cờ Đỏ ? - Dạ, nhà em tại Ba Vàm. Ba em vốn người Nam Vang, kéo vó (4) bắt cá lặt vặt mỗi ngày. Má em quê quán tại Trung Quốc, hiện làm ruộng sau nhà. - Kẻ ở đầu sông, kẻ cuối sông, sao ba má em lại được gặp nhau ? Chắc là do cơ duyên, ba má em sum họp nhau tại Việt Nam sau thảm họa cho người Việt tại đất nước chùa Tháp do bọn Pôn Pốt gây ra vào những năm đầu thập niên 1970. Gia đình không khá giả, em phải lặn lội đi buôn bán, chắt mót thêm chút ít tiền giúp ba má nuôi các em đi học. Ngồi ròng rã suốt 7 tiếng đồng hồ, trên ô tô và con tàu nhỏ bềnh bồng trên sông 2nước Đan, có cơ hội trầm tư trước cảnh vật xinh tươi và ruộng đồng bát ngát nơi miền quê hồn hậu mà ở thị thành không hề có được. Sông Ô Môn rộng mênh mông, từ thị trấn luồn qua chiếc cầu đá chênh vênh vững vàng, nhìn từ xa như một cổng trời. Dưới nắng mai, giòng sông tráng lệ nên thơ như giải lụa hồng, mang phù sa màu mở vun bồi thêm đôi bờ san sát nhà cửa vườn tược. Tâm hồn lãng mạn giàu tính nghệ sĩ của Đan lâng lâng với cảm xúc dạt dào mỗi khi anh say đắm nhìn những hàng dừa xanh rũ tóc, những tán xoài um tùm nghiêng nghiêng đổ bóng xuống mặt sông phẳng lặng như tờ. Từng chùm hoa bằng lăng sum sê tím thẩm trong bóng hoàng hôn bãng lãng bao lần khiến anh cảm thấy dào dạt hồn thơ. Chiếc tắc ráng lướt nhanh trên mặt sông rộng như con rắn nước khổng lồ, thỉnh thoảng lại lừ đừ cập bờ đón khách sau khi lách tránh những đống chà rải rác ở triền sông hay những bè lục bình, rau mát trôi lênh đênh trên mặt sông. Đan lầm thầm khẳng định trong tâm trí: Ô Môn quả đẹp tuyệt ! Chả nào nhạc sĩ Triều Dâng đã chẳng cảm xúc sáng tác nên một ca khúc bất hủ để đời (1). • Tiếng máy nổ lạch tạch xen lẫn tiếng nói chuyện xì xào của vài hành khách tạo thành một âm thanh đặc biệt làm nhiều người ngủ gà ngủ gật trên tàu. - Cho tôi đi vô Thới Lai, chị Hai ơi ! Giọng khao khao quen thuộc của anh Bảy Đực, gọi đò vọng lại từ trên bờ sông. - Có người gọi đò bên phải đó con ! Chị hai Khỏe vừa nhắc con gái vừa cầm cần máy tạt sang trái, điều khiến cho tàu tránh bè lục bình rậm rạp, lách qua khỏi đống chà rồi quẹo phải. Trên bờ cao, một người đàn ông quá tuổi trung niên, y phục màu sẫm, thân mình vạm vỡ, đầu quấn gọn búi tóc trong chiếc khăn rằn, tay phải cầm dây kéo theo sau con heo nọc giống vượt cỡ lông dài xám xịt, đôi nanh heo cong nhú ra hai bên mép như hai ngó sen. - Chị Hai cho tàu cập sát chiếc cầu ván để đứa con tôi đi xuống. Ông khách nhắc lại chủ đò. - Hôm nay dẫn quý tử đi làm ăn hướng nào vậy anh Bảy ? Chị Hai Khỏe chào thân mật người đàn ông vốn là hành khách quen thuộc đang đứng trên bờ. - Giữ lời hứa, sáng nay tôi đi bỏ nọc cho chị Ba Chà nhà gần thị trấn, cạnh nhà thờ. Con heo nái của chị Ba đến mùa động đực sung dữ mấy hôm rồi. - Anh đi trên chị Ba Chà chừng nào về nhà, tôi ghé rước anh. Nhân tiện, anh cho nhảy giùm tôi con heo nái. Chị Hai nói tự nhiên. - Vùng này, nhiều bà mê giống heo Mỹ Yorshire lớn con, khỏe mạnh lại năng suất cao của tôi lắm. Vì vậy, sau khi nhảy nọc cho heo chị Ba, tôi còn phải hành quân vài nơi khác nữa dù má bầy trẻ luôn bận rộn việc rẫy bái, rất cần sự có mặt của tôi tại nhà. Bảy Đực trả lời rõ ràng, mặt mày tỉnh bơ. Kiểu nói úp mở têu tếu của chị Hai Khỏe và ông khách bỏ nọc heo giống mới xuống đò khiến nhiều người phải bấm bụng cười thầm. Đò Thới Đông đầy khách và hàng hóa thêm nặng nề. Tới ngả ba sông tại chợ 3Thới Lai, chị Hai rẽ phải chạy một mạch vào kinh Đứng - con kinh đào thẳng băng cắt một vạch dài như miếng thủy tinh, long lanh dưới nắng trưa giữa đôi bờ cao, xanh um những hàng xoài và so đũa của xã Ngôn Thiện. Ngồi yên trên con đò chạy băng băng trên dòng kinh đục ngầu nước phù sa, chốc chốc Đan gặp lại những chiếc thuyền chài, xuồng câu cá rải rác suốt chặng đường dài, và tai Đan được nghe văng vẳng tiếng hót líu lo của chim chìa vôi, giọng rả rích của mấy chú trao trảo vọng lại từ những lùm cây xa sau mái nhà tranh lúp xúp đôi bờ. Mùa nước nổi sau vụ gặt, cánh đồng mênh mông nơi đây hoa điên điển nở rực như rừng mai vàng. Thị trấn Thới Đông nằm cheo leo tại doi đất hội tụ giữa sông Cờ Đỏ và kinh Đứng bốn mùa ngầu đục nước phù sa. Thời gian chuyển mùa, sau vụ gặt đông xuân, những cánh đồng lúa mênh mông yên ả vắng hẵn bóng người nông dân. Đứng trên chiếc cầu gỗ cũ chênh vênh nối kết giữa đôi bờ sông, khách nhàn du dễ trông thấy rõ từng con cá lội trong dòng nước trong veo không bợn chút bụi rêu. Từ nhà lồng chợ hướng về Thới Xuyên, trường trung học nằm bên phải, đối diện với khu nhà hành chính quận lỵ bên kia bờ sông. Những chiều cuối tuần không về nhà, Đan thường thơ thẩn một mình ra đứng trên cầu, tựa thân vào lan can, vọng hướng nhìn về dãy Thất Sơn huyền bí mờ ảo hiện ra sau màn sương mỏng. Đêm thứ bảy cuối tuần - ngày lễ hội Ok - Om - Bok hằng năm của người dân tộc Khmer. Buổi trình diễn văn nghệ tưng bừng được tổ chức tại sân rộng thành Miên gần lẩm lúa ngày trước nay còn đậm dấu ấn với ống khói cao nghệu đứng tần ngần cạnh bờ sông. Đan không về nhà để dự đêm liên hoan văn nghệ do cha Srey mời. Dấu ấn sơ sài của một thành cổ xa xưa chỉ còn lớ mờ phảng phất qua bãi đất rộng rải rác những tảng đá ong lớn sứt mẻ, chất chồng xi

Xem

YÊU CHỈ MỘT LẦN Nguyễn Thanh

Nguyễn Thanh YÊU CHỈ MỘT LẦN Nhớ mãi giọng ca buồn Truyện ngắn Chiếc xe Honda cà tàng màu lam sậm rì rầm chạy vừa qua khỏi cầu Quang Trung, Đan chậm rãi giảm ga, rẽ phải bò cặp xuống theo mang cá cầu. Nhóm sinh viên hiểu ý chàng, thong dong nối đuôi theo người thầy dạy mỹ thuật. Sáng nay, Đan chủ động thay đổi bối cảnh nhằm gây cho sinh viên cảm xúc mới lạ, mang hơi ấm thời sự. Đan thầm nghĩ: chợ nổi Cái Răng hay Phong Điền, với cảnh ghe thuyền bềnh bồng trên sông nước hay di tích đậm dấu ấn lịch sử, văn học ở Bình Thủy, Ô Môn là đề tài quen thuộc đã xuất hiện nhiều trên khung vải của thầy trò Đan. Xe máy của đoàn họa sĩ tương lai chạy luồn qua dạ cầu, lục tục đảo ra vàm sông Cần Thơ. Trông từ xa như chú bạch xà lượn mình, con lộ nhỏ cặp ven bờ Hưng Phú lượn lờ uốn khúc với những chiếc cầu xi măng chật hẹp. Bên trong bờ con lộ nhỏ ngoằn ngoèo, xanh um những tán cây xoài, cóc, so đũa thân mật giao đầu, tạo nên sắc màu dễ chịu trong không khí mát mẽ buổi sáng. Nơi bờ sông cạnh mé lộ, lác đác vài cây bần lá cành thưa thớt, ngâm chân dưới nước, như những anh lính gác giặc thời chiến, trong tư thế nghiêm trang đang canh giữ cõi bờ. Cần Thơ với cao ốc chênh vênh, ăng ten tua tủa, và tàu thuyền san sát cặp bến nơi bờ kè trông từ Hưng Phú, như một thành phố biển nhộn nhịp miền nam nước Ý. - Thầy ơi, đi đâu giờ hỡ thầy. Mặt mày hớn hở, nhí nhảnh, một nữ sinh, tay vừa cởi chiếc khẩu trang, giọng ngây thơ chút liếng thoắng hỏi Đan. - Cứ chạy theo sư phụ mà, làm gì sốt ruột thế. Một nam sinh ăn cơm hớt, đáp lại khi thầy giáo chưa kịp trả lời người bạn gái. - Cũng gần tới chỗ rồi các em, kiên nhẫn chạy ít phút nữa thôi. Đan vui vẻ trấn an đám học trò. * Hằng năm cứ đến ngày chớm đông, tiết trời khô ráo, vào chủ nhật hay ngày lễ, Đan thường hướng dẫn các học sinh mỹ thuật đi vẽ ngoài trời, một thói quen rất nghệ sĩ mà anh học tập được từ thầy cô giáo sư họa sĩ thuở Đan còn mài cọ ở Trường Mỹ thuật. Phong cảnh nhà cửa, xe cộ đậm tính công nghiệp thành phố quen thuộc đã trở nên khô khan, hôm nay thầy trò Đan hăm hở hành quân ra vùng thiên nhiên ngoại ô, để vẽ phong cảnh, dự định xế chiều mới về nhà. Đám học sinh, sau khi tự điểm tâm buổi sáng, tập trung tại trường đúng giờ hẹn. Ngoài bìa kẹp thay cho giá vẽ cùng giấy bút, cọ màu, các em trang bị thêm xôi, hay bánh mì… và chai nước suối. Trên khuôn mặt mọi người biểu lộ một niềm vui háo hức, tin yêu. Qua khỏi khúc lộ quành vàm sông Cần Thơ, đi một quãng vài trăm mét hướng về cảng Cái Cui, Đan ra dấu cho đoàn chậm lại. Gần đến cồn Ấu, chàng đưa mắt nhìn về cầu Cần Thơ, rảo mắt quan sát một vòng cảnh vật xung quanh. Đan tìm được bên lạch nước một chỗ khá yên tĩnh, bãi đất lún phún cỏ may, cỏ chỉ bên dưới một tàn xoài phủ mát bón :- Nơi này ổn rồi. Mỗi em tự tìm một chỗ thích hợp để tác nghiệp. 1 Đan đặt giá vẽ hướng về chiếc cầu thế kỷ dài nhất Đông Nam Á, mà anh thường coi đó là thành tựu đáng tự hào của người Việt Nam sau khi đất nước thống nhất. Nhưng bất chợt chàng cảm thấy ngậm ngùi về những mất mát hy sinh nghiệt ngã của những công nhân bất hạnh từng góp tay xây dựng nên nó. Dưới ánh bình minh rực rỡ nhuộm hồng từ phía chân trời xa tít bên kia bờ sông Hậu, cầu Cần Thơ uy nghi hiện ra như một mống trời vĩ đại. Dáng đứng sừng sững hiên ngang, chiếc cầu mới nằm vắt mình ngang con sông rộng, nối liền mạch giao thông cả nước. Nhịp cầu như chiếc ngực vạm vỡ của lực sĩ Hà Châu* và những mống cầu là những cặp chân săn chắc của thần trụ trời từ xa trông như những ngó sen khổng lồ muốn vút thẳng lên tận mây trời. Bên dưới lòng cầu, dòng sông Hậu hiền hòa, phẳng lặng, căng dài như một dải lụa, lấp lánh dát vàng ánh nắng thủy tinh buổi sớm. Bâng khuâng trước cảnh trời cao sông rộng, tâm hồn cảm xúc, Đan vụt khẽ ngâm chỉ đủ mình nghe : “Sóng gợn tràng giang…” nhưng bỗng chàng vội ngừng lại vì vừa kịp nghĩ ra vế sau câu thơ nổi tiếng trên không còn phù hợp với hoàn cảnh đất nước phồn thịnh của chàng hôm nay. - Thầy ơi, thầy xem hộ em coi phác thảo thế nầy được chưa? - Bố cục em như vầy ổn không hỡ thầy? - Thầy chỉnh hộ lại giùm em…! Tiếng nói vui vẻ hồn nhiên của đám học trò thân yêu đánh thức Đan trở về thực tại. Chàng rời giá vẽ, chậm rãi đến từng tác phẩm học trò; khi thì nhận xét, giải thích, khi thì chàng cầm bút chì hay cọ ân cần hướng dẫn các em củng cố lại bài thực tập. Bằng động tác quen thuộc, Đan giúp học trò điều chỉnh lại chi tiết, sắc độ, ánh sáng bức tranh, hoặc chọn lại điểm nhìn, vạch lại đường chân trời cho phong cảnh trông hun hút trữ tình hơn. - Bố cục cắt ngang hay cắt dọc là nên tránh. Để được một bức tranh đẹp, các em nên thiết kế theo bố cục tam giác. Kiến thức kinh điển được xem là mẫu mực ở trường mỹ thuật, lời khuyên quí giá của các giáo sư họa sĩ đàn anh từ trải nghiệm thực tế sinh hoạt nghệ thuật, Đan cảm thấy sung sướng và hảnh diện được truyền thụ lại cho thế hệ đàn em tỏ ra tha thiết đắm say với cái Đẹp qua nghệ thuật tạo hình. Sinh viên, học sinh, từng em yên lặng, đôi mắt long lanh, chăm chú lắng nghe Đan như uống từng lời giảng chân tình của người thầy học giàu tâm hồn nghệ sĩ. - Bình minh rực rỡ lên rồi, em nên tăng thêm nồng độ gam hồng chung quanh mặt trời. Vừa hướng dẫn cho sinh viên, Đan liên hệ đến bức tranh nổi tiếng “Ấn tượng, mặt trời lên” của danh họa ấn tượng Pháp Monet và các họa sĩ phong cảnh bậc thầy Cézanne, Pissaro. Chàng lưu ý các em, trên cơ sở phát huy giá trị tinh túy của nghệ thuật chân chính, cũng cần nỗ lực khai phá và khơi dậy nét đặc thù sáng tạo của mỗi người cầm cọ… Say sưa trao đổi kinh nghiệm với học trò, Đan cơ hồ bỏ quên chiếc giá vẽ với mấy nét phác thảo qua loa của chàng trên khung bố đứng lạnh lùng chờ đợi chàng trong góc vườn tĩnh lặng. Nghệ thuật với Đan là một thế giới diệu kỳ, hướng chàng về chân trời phía trước cùng các hoạ sĩ vươn lên kiếm tìm cái Đẹp. Được nuôi dưỡng từ tấm bé bằng hương vị ca dao qua lời ru ngọt ngào của mẹ hiền và lớn lên bằng hơi ấm lời thơ của người cha thiết tha với văn chương tiếng mẹ, Đan đã đến sớm với văn nghệ trong những ngày thơ ấu còn học sơ đẳng ở trường làng. Từ khi ra tỉnh học đến lúc bước chân ra trường đời, dù phải qua bao chìm nổi đắng cay trong cuộc sống đa đoan, chàng vẫn thủy chung với bút cọ sắc màu như một cơ duyên tiền định. Tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết mà phải sống giữa chốn đô thành cát bụi ồn ào tiếng xe cộ ngày đêm, Đan cảm thấy khát khao một chút hương vị của núi rừng hay 2mùi hoang dã của ruộng đồng sông nước. Những ngày rảnh việc Đan thường cùng các bạn họa sĩ và đám học trò học mỹ thuật đi về một miền quê yên tĩnh ngoại ô thành phố để vẽ phong cảnh. - Xin chào …, họa sĩ vẽ tranh đẹp quá! Giọng nữ nhỏ nhẹ trong trẻo bất ngờ khiến Đan dừng tay cọ. Chàng chẫm rãi lùi xa giá vẽ một bước, xoay mình nhìn về hướng tiếng cô gái. - Dạ, xin chào cô ! Đan đáp, giọng như chưa kịp ý thức gì trước cô gái xa lạ. Nhưng Đan bỗng lầm thầm trong óc : “Tóc dài cho ốm dáng gầy”. - Sao lại thế? Mình tỉnh hay mơ ? Cô gái dáng tầm thước có hình vóc mảnh mai trước mặt chàng, với khuôn mặt trái xoan trên đó nổi bật lên đôi mắt nhung buồn và mái tóc đen dài óng mượt buông lơi, phủ hết bên một bờ vai sao lại giống hệt như in Thanh Thúy yêu thương của chàng ngày nào…? - ……………! - Thưa, nhà cô ở gần đây? Tôi là Đan, giáo viên Mỹ thuật, còn quý danh cô là … ? Đan ấp úng nhìn cô gái mới gặp như muốn gợi chuyện để không bị em là lạnh cùng với người khách lạ. - Dạ, em tên Lan, Mỹ Lan. Nhà em ở bên kia Cồn Ấu. Ánh mắt long lanh nhìn Đan, Mỹ Lan vừa nói tay nàng vừa chỉ sang bên kia bờ sông, xanh thắm những vườn cây tạp nơi chàng có lần qua sông đến đó gác chim rừng để thư giản tâm hồn giữa cảnh thiên nhiên trong những ngày không bận việc. - Thế chắc cô có việc mới sang đây? - Dạ, hôm nay nhân ngày nghỉ, em đi chợ sớm thay cho mẹ, về ngang đây thấy… th … chú và các em vẽ tranh thích quá, em ngưỡng mộ, dự định dừng lại đứng nhìn trộm … Giọng Mỹ Lan trong trẻo, nhỏ nhẹ rất gợi cảm khiến Đan đoán nàng là cô gái có trình độ văn hóa của một gia đình gia giáo. Nhưng Đan chợt nhận ra dường như ban đầu nàng muốn gọi chàng là thầy… nhưng không hiểu sao lại đổi cách gọi lại chàng bằng chú. Chàng nghĩ là chắc có duyên do gì đây. Đan ngẫm nghĩ : mới gặp nhau mà gọi là thầy thì không có cơ sở dù rằng nàng biết chắc mình là thầy giáo vì có đám đệ tử lủ khủ theo cạnh. Cũng có thể là nàng thấy tuổi tác không chênh lệch mấy nên gọi chàng là chú. - Thế Mỹ Lan có yêu hội họa không? - Dạ, em say mê mỹ thuật từ nhỏ nhưng hoàn cảnh gia đình chưa có cơ hội cho em đi học hội họa. Đứng trò chuyện với Đan, Mỹ Lan đưa mắt nhìn từ chiếc giá vẽ dựng cao lênh khênh bên cạnh Đan đến những tuýp màu nhỏ xinh xắn mà Đan vừa mới bốc ra khỏi hộp, nằm lổm ngổm trên bệ gỗ dưới khung vải khiến nàng tỏ ra thích thú. - Vậy nếu có người tạo điều kiện cho Mỹ Lan đi học Mỹ thuật thì cô nghĩ sao? - Dạ, em chưa dám mơ được may mắn đó để thỏa mãn cho ước mơ thầm kín của em ấp ủ từ lâu nay. Do vậy em chưa từng được tiếp xúc với màu cọ bao giờ. Giọng nói chậm rãi, thoáng gợn âm hưởng một nỗi buồn e ấp trong lòng như thể hôm nay nàng mới có dịp thổ lộ tâm sự mình với người khác. Làn gió nhẹ rì rào từ sông Hậu chợt thoảng đưa vào thì thào như cảm thông muốn san sẻ với nàng. Cùng lúc ấy, ánh nắng buổi trưa trong như thủy tinh len lỏi qua đám cành lá xoài rậm rạp làm sáng lên khuôn mặt trái xoan và long lanh một niềm tin tưởng ở đôi mắt phượng của Mỹ Lan. Hiều được hoàn ảnh Mỹ Lan, Đan dự định sẽ tạo cơ hội trước cho nàng đi học Trung cấp Mỹ thuật, sau đó sẽ tiếp tục theo lần lên Đại học, phù hợp với ước vọng và hoàn cảnh của nàng. Đám học sinh của Đan biết điều để yên cho thầy nói chuyện với khách, ít hỏi han thầy 3mà chỉ tập trung lo vẽ. Dù vậy, thỉnh thoảng anh vẫn đến gần các em và nhắc nhở :- Em nên hạ đường chân trời xuống một chút để bối cảnh rộng thoáng hơn, tương hợp với dòng sông Hậu mênh mang.- Còn em thì giảm bớt sắc độ màu lam để thể hiện trung thực bầu trời quang đảng buổi sáng. * Buổi sáng chủ nhật như mọi lần. Hôm nay, sắc trời xanh trong , mượt mà khiến cho không gian một quãng dài sông Hậu rộng lớn hơn giữa đôi bờ xa lắt. Đúng ngày, Mỹ Lan tìm đến vị trí cũ đã hẹn với Đan trong khi anh đã đến trước và đang đợi nàng ngồi làm mẫu cho anh vẽ tặng nàng. Với sự hướng dẫn ân cần cúa Đan, Mỹ Lan nhẹ nhàng ngồi trên một bục gỗ, tựa lưng vào thân cây phong, đôi chân xếp về cùng một bên dưới tán lá phong sum suê, xanh thắm. Mặt nàng hướng xa xăm về cầu Cần Thơ. Mái tóc dài nhung mượt của Mỹ Lan vắt tạt sang một bên vai, khuất một phần sau chiếc cổ thon màu da trắng mịn, Đan đặt giá vẽ tại một vị trí thuận lợi cho anh có thể đưa vào tác phẩm hợp lý cả người và cảnh. Bỗng Đan bất chợt suy nghĩ và cười thầm một mình về bối cảnh anh sắp đặt : Sao giống y như cảnh tượng nàng Tô Thị trông chồng! Mặt trời chưa lên cao, bóng cây lênh khênh đổ dài trên mặt đất lún phún cỏ dại. Cơn gió nhẹ từ sông Hậu hiu hiu thoảng vào, thoáng dậy lên mùi hăng hắc của đất ẩm và lá mục quyện với hương cỏ dại miệt vườn gay gay buổi sáng khiến Đan có cảm giác thân quen dễ chịu như những ngày còn bé thơ anh thường sáng chiều ra đồng thăm rẫy cùng mẹ. - Tốt rồi Mỹ Lan, em cố giữ yên tư thế đó độ mươi phút để tôi lấy croquis là xong… Việc phác thảo bước đầu bằng bút chì vừa tạm ổn, Đan lấy ra trong túi xách chiếc máy ảnh kỹ thuật số mà một em học trò từ hải ngoại mang về tặng anh. Đan phòng xa, chụp thêm mấy poses cùng một đề tài để hỗ trợ thêm cho anh trong việc hoàn thành nốt họa phẩm chân dung cô gái khi trở về phòng vẽ. * * * Thắm thoát đã bốn năm sau qua, Mỹ Lan miệt mài tiếp tục khoá Đại học Mỹ thuật sau khi tốt nghiệp Trung cấp. Những hôm không có giờ học ở trường, nàng đến luyện tập tại phòng vẽ của Đan để được chàng hướng dẫn thêm về kiến thức hội hoạ. Mái che tạm bằng simili, Studio của Đan nằm kề sát bên trường học để chàng tranh thủ thời gian quí hiếm cho việc cầm cọ. Đang lúi húi mở những tuýp màu để chỉnh lại cho bức chân dung phụ nữ sắp sửa hoàn thành, Đan khẽ nghe có tiếng người dừng xe đạp trước của:- Chào hoạ sĩ ! Anh Đan vẽ thần tượng nào đấy ? Người đẹp trong tranh của hoạ sĩ quả là một trang tuyệt thế giai nhân ! Người yêu của họa sĩ chứ… ? Mỹ Lan chăm chú nhìn chân dung người con gái thoáng vẻ liêu trai mà cũng không kém phần rực lửa dưới nghệ thuật sử dụng gam hồng tinh tế đầy sáng tạo của tác giả. Mỹ Lan nói chậm rãi, giọng dịu dàng mà không nhìn vào đôi mắt chàng như mọi lần. Nhưng Đan sớm nhận ra ở giọng nàng một thoáng ngậm ngùi xa vắng… Đan như hiểu được tâm trạng nàng nên cố đánh thức ở Mỹ Lan một niềm tin yêu tích cực…- A, chào Mỹ Lan. Sáng nay, cô không có giờ học à ? - Dạ, sáng nay giáo viên dạy môn Lịch sử Mỹ thuật thế giới bận họp, bọn em nghỉ trọn buổi sáng… Mẹ bảo em đến thăm anh, nhân tiện gởi anh mấy trái xoài cát Hoà Lộc đầu mùa vừa chín bói em mới hái. Mỹ Lan nhẹ nhàng đặt bọc trái cây trên chiếc bàn gỗ cũ gần cửa sổ, mặt bàn lốm đốm những vệt màu trông như da con tắc kè lửa. 4 Vừa dứt lời, Mỹ Lan tiếp tục lấy ra từ trong một gói dài bao bằng mấy tờ giấy ruột nhật báo một chiếc khăn đan màu lam nhạt thoang thoảng mùi nước hoa dễ chịu. Nàng nhìn Đan, dịu dàng: - Riêng em, em… gởi anh chiếc khăn lông tự tay em đan để anh quấn cổ mỗi khi thức khuya làm việc trong những khi tiết trời trở lạnh. Đan trìu mến nhìn Mỹ Lan, hiểu ra được tấm lòng sâu kín của nàng qua sự quan tâm của nàng tự mấy năm qua. Bất giác, Đan tự trách mình sao quá dửng dưng đến vô tình trong thái độ nhận mà không cho… với bất cứ người con gái nào đã tỏ ra có tình ý với chàng. Trên bước đường lãng tử đây đó tha phương, Đan bâng khuâng nhớ lại có không ít những bóng giai nhân đã để mắt xanh theo đuổi chàng nhưng Đan vẫn lạnh lùng rồi tìm cách dần dần xa lánh.- Thầy cho em được ở lại đây nấu cơm cho thầy và trông coi các em. - Anh Đan cho em được theo anh về đồng bằng… Thấy Đan sống một mình với thân phận gà trống nuôi con, nhiều cô gái nói có vẻ nửa đùa nửa thực trong những lần tìm đến nhà hay gặp Đan trong lần anh đi thực tế nơi thành phố biển cùng đoàn văn nghệ sĩ. Và bao nhiêu cánh thư màu xanh còn thoảng mùi nước hoa… bất chợt đến với chàng mỗi ngày từ những phương trời xa lạ. Những Thanh Thuỷ, Lan Anh…ở đất Trà Ban thị trấn không đèn; những Hồng Điều, Ngọc Cẩm. Cẩm Duyên, Tường Lan… nơi xứ Vị Thanh heo hút nắng bụi mưa bùn rồi Mộng Điệp, Hồng Hạnh, Hoài Mộng, Ngọc Cầm, ,…của xứ lúa Thới Đông . Những giai nhân ấy với Đan bao giờ cũng là hình bóng những người con gái đẹp đáng yêu trong giấc mơ tiên của chàng. Đôi lúc Đan tự nghĩ mình ngờ nghệch như chàng trâu đực ù lỳ bị bủa vây bởi những chiếc cột sống lãng mạn đa tình. Tất cả nàng Thơ đều mang đến cho Đan kỷ niệm êm đềm thâm thúy khó quên trong cuộc đời tình ái. Nhưng đó chỉ là những trận mưa mây, chưa phải là hiện thực tình cảm trong thẩm sâu trái tim chàng. Vì lẽ đằng đẳng mấy mươi năm qua trong trái tim Đan chỉ ngự có một bóng người… * Ngày ra trường, Đan nhận hoán chuyển cho anh bạn học quê ở miền Trung về dạy tại Long Mỹ. Bạn Đan cho Trà Ban lớn ** là vùng nước mặn đồng chua, đường đi về gập ghềnh nguy hiểm vì thường bị đấp mô, đào đứt đoạn hay có lúc xe hơi chở hành khách phải liều lĩnh chạy qua trong làn đạn giao tranh vô tình của hai phía. Với Đan, chàng nghĩ trên đất nước Việt Nam ở đâu cũng là quê hương và con người chỉ thục sự trưởng thành trong thử thách hiểm nguy. Là giống nòi tình giàu cảm luỵ, Đan trĩu nặng trong lòng một tình yêu đa phương. Về Long Mỹ ngày ấy, Đan phụ trách môn Việt văn, Mỹ thuật theo nguyện vọng dù anh có đủ điều kiện chuyên môn để đứng lớp dạy Toán, Ngoại ngữ và Vũ thuật. Không như một vài bạn giáo viên dạy khoa học của Đan cho rằng theo nghệ thuật văn chương là để đi cua gái. Với Đan, chàng quan niệm văn học là tiếng mẹ đẻ, tiếng nói đích thực của quê hương, chứa đựng tình tự muôn đời của quê hương dân tộc. Dạy văn chương, Đan có cơ hội lồng các bài thơ Chiều, Con chim của tôi, Người mọi già, Dậy mà đi !…của nhà thơ Tố Hữu vào giờ đứng lớp dạy văn do chàng phụ trách để gợi khêu ở học sinh tình yêu dân nghèo lao động và tinh thần quật khởi….gợi lên ở học sinh và người dân nô lệ. Đan hằng thầm nghĩ, yêu mỹ thuật văn chương là yêu cái đẹp của thiên nhiên, là thể hiện tình cảm thuỷ chung của con người trước non sông gấm vóc của đất nước quê hương. Do vậy, Đan gắn bó suốt đời mình với văn nghệ. Dù bận rộn trăm phương với công việc suốt ngày, Đan vẫn tranh thủ miệt mày cầm bút và vẽ lớn thêm tranh chân dung của các danh nhân như Quang Trung, Lê Lợi, Nguyễn Đình Chiểu… Ờ Long Mỹ, Đan đảm trách thêm tờ đặc san “Niềm Tin” in rô-nê-ô và ban Văn nghệ Thanh Thanh của trường Trung học ngoài lớp võ Ju-đô được tổ chức theo đề 5nghị của hiệu trưởng Nguyễn Văn Trương. Tờ đặc san được coi là tiếng nói của nhà trường ra mắt mỗi năm vào dịp tết Nguyên Đán. Ban Văn nghệ phụ trách vào các ngày lễ hội, và ngày lễ kết thú năm học. Đan hoạt động năng nỗ không biết mệt suốt tuần kể cả những buổi hướng dẫn học sinh lớp hội hoạ đi vẽ phong cảnh ngoài trời ở vùng ngoại ô thị trấn. Thời giờ với Đan như luôn được sắp xếp khít khao trên từng cây số. Như một nhân duyên định mệnh, Đan và Thanh Thuý đã gặp và thông cảm như hai kẻ đồng hội đồng thuyền. Nàng là một giáo viên tiểu học giỏi chuyên môn, tận tuỵ với nghề và yêu thương học trò. Thanh Thuý có đông anh em trong một gia đình lao động nhưng lại bất hạnh sớm mồ côi cha. Cha Thuý theo Việt Minh, đi hoạt động giữa khuya bị lính Năm Lửa bắt và bí mật giữa đêm khuya cho đi mò tôm mất xác. Mẹ Thuý già yếu, hay ốm đau, phải tần tảo bán buôn hằng ngày để nuôi đàn con dại. Thuý đến với Đan qua văn nghệ. Tân cổ nhạc Thuý đều hát hay với giọng ca truyền cảm, chắc nhịp như một ca sĩ nhà nghề. Giọng ca Thuý ngọt ngào, dễ cảm nhưng chan chứa nỗi u hòai. Dù là giáo viên, nàng vẫn xuất hiện đều đặn trong các buổi trình diễn văn nghệ trong vai trò ca diễn trong ca khúc hay các vở kịch ngắn do Đan sáng tác. Chàng không thể nào quên vai diễn nữ chính xuất thần đáng để đời của Thuý trong vở kịch thơ Huyền Trân Công chúa của Ngũ Lang mà Đan đảm nhiệm vai nhân vật Trần Khắc Chung trên sân khấu nhà lồng chợ huyện. Thuý mảnh mai, dáng đi nhẹ nhàng, phù hợp với nhạc buồn với giai điệu bi thương và độc đáo thể hiện được tính cách lãng mạn của vai nữ trong các vở kịch. Ca khúc Thương hoài, nhạc phẩm trữ tình đầu tiên của Nguyễn Thanh được Thuý trình bày thành công để lại dấu ấn tốt đẹp chung cho cả tác giả và ca sĩ trong buổi đầu hoạt động văn nghệ tại thị trấn Trà Ban. Ngày ngày, tiếng bom B 52 xa xa đì đùng như địa chấn từ U Minh, tiếng đại bác gầm rống từ vùng Xà Phiên, Vĩnh Viễn vọng về. Đêm đêm rè rè soi mói tiếng những con đầm già L 19 lập loè trên bầu trời mịt mù hoang vắng như ánh ma trơi xen lẫn với ánh sáng trái hoả châu chói loà không gian mà một nhạc sĩ trước đây đã vô tình hay mỉa mai là ánh hoa đăng ngày cưới ! Những chiều chủ nhật hay ngày lễ, công chức giáo viên không về nhà, tập trung tại gian phòng trọ trống hoác của Đan bên cạnh văn phòng nhà trường để duợt nhạc. Tiếng hát, tiếng đàn xoa dịu nỗi buồn của kẻ xa nhà đang làm việc nơi vùng nước mặn đồng chua. * Ngày lễ, hầu hết anh em giáo viên về thăm gia đình. Buổi tối, trên con đường vắng từ chợ huyện dẫn đến trường, Thuý lững thững, tay cầm bản nhạc đến phòng trọ Đan trong khi chàng đang ôm đàn dạo lại một bản nhạc mới vừa sáng tác.- Anh Đan, anh tập bản nhạc nầy cho em. Thuý vừa nói vừa đặt lên mặt bàn ca khúc Nói đi anh của một nhạc sĩ nổi tiếng. Ca từ trong ca khúc trữ tình là những giai điệu dồn dập, thể hiện lời giục giã nồng nàn cháy bỏng yêu đương của một thiếu nữ trước đối tác tình cảm của mình. Ân cần tập cho Thuý hát, Đan cũng nhận ra nàng hát xuất thần như thể muốn nói hết tâm tư thầm kín của mình. - Thuý hát bản nhạc mới nầy hay không thua bản Thương hoài em hát trên sân khấu ngoài trời vừa qua. Thuý tỏ ra mãn nguyện trước lời nhận xét chân tình của Đan… Trời ngã khuya, phố chợ quạnh hiu. Thuý rời khỏi phòng về nhà trọ, đi độ một quãng đường, Đan chợt phát hiện ra trên miệng túi áo chàng treo gần cửa sổ một biểu tượng ĐT bằng kim loai màu bạc óng ánh rất xinh xắn và mỹ thuật… Hai chữ hoa Đ và T được chạm trỗ khéo léo theo kiểu chữ viết, với các chi tiết rất mỹ thuật đan kết vào nhau. Đan chợt nhớ 6có lần Thuý tâm sự với chàng: - Em không dám cao vọng gì nhiều, chỉ mong sao có được một túp lều tranh với hai quả tim vàng. Và ước mơ của Thuý đã thành hiện thực. … Tổ ấm của hai vợ chồng nhà giáo nghèo nằm khiêm tốn trong một khu xóm lao động phức tạp trong nội ô thành phố. Mỗi ngày, sau buổi cơm trưa, Đan có thói quen nằm võng đọc báo mươi phút để chờ đến giờ đi dạy học. Tiết trời hè oi ả, Thuý ngồi bên cạnh tay cầm quạt giấy phe phẩy quạt cho chồng trước khi nàng tự cỡi xe đạp một mình đến trường. Hạnh phúc viên mãn trong cuộc sống lứa đôi đã kết tinh được cho hai vợ chồng những đứa con xinh xắn, ngoan hiền. Bỗng một hôm, chàng buồn bã nhận ra Thuý vốn đã gầy ốm lại có phần héo hắt xanh xao thêm… mà nàng đã âm thầm cam chịu qua bao năm tháng không cho Đan biết. Dù Đan hết lòng chạy chữa khi biết vợ đã vướng phải chứng bệnh ung thư quái ác, Thuý ngày càng tiều tuỵ, sớm xa anh và bỏ lại một đàn con dại mà đứa nhỏ nhất chưa đầy hai tháng tuổi. -Thuý ơi, sao em nở để các con thơ sớm mồ côi mẹ, sao em đành bỏ anh một mình ! Giờ đây anh đệm đàn cho ai hát, đàn con dại của chúng mình cũng không còn cơ hội để được hồn nhiên gọi em mỗi ngày hai tiếng: Mẹ ơi ! …* Bầu trời Tây đô sang xuân, màu nắng thủy tinh lung linh không gian thành phố rộn rịp người qua lại. Phòng văn chàng vắng lặng trong tiếng ồn ào xe cộ bên ngoài. Đan ngồi tư lự một mình với vẻ mặt đăm chiêu. Chàng lầm thầm trong tâm trí: Mỹ Lan hay bất cứ giai nhân nào đi nữa…dù nhân bản như in của Thanh Thuý, với ta… tất cảc cũng chỉ là ảo ảnh trước mắt chứ không bao giờ là thần tượng tình yêu đích thực trong sâu thẳm trái tim ta. Bỗng chốc, một luồng gió nhẹ từ sông Hậu hiu hiu thổi vào. Từ trên khoảng không, mấy chiếc lá sao khô lìa cành, lảo đảo chao lượn mấy vòng như con chim bị đạn rồi cắm phặp xuống mặt đường nhựa khô khan như nhắc Đan một lời khẳng định.- Không, ta không dễ là một khách tình si nhẹ dạ bên đường khi trong tim ta đã ngự sẵn từ lâu hình bóng Thúy. Trong thế giới yêu đương, ta yêu chỉ một lần ! . 29. 02. 2020 N. T*Hà Châu : Đại lực sĩ gốc ở lục tỉnh, khét tiếng với màn trình diễn làm đứng tim người xem: nằm trên đường cho hủ lô hàng chục tấn cán qua. ** tên gọi khác của Long Mỹ

Xem

Xóm vú sữa bây giờ – Truyện ngắn của Phương Đình

Buổi sáng, tiết trời chớm thu se lạnh, mùa khai trường rộn rịp năm học mới bắt đầu. Thêm các em từ quê ra tỉnh học, Văn lỉnh kỉnh dọn đồ đạc sách vở về đóng đô ở xóm Vú Sữa, cặp bờ sông Cái Khế. Văn về với với ngôi nhà lá nhỏ vừa được ba mẹ mua cho để anh em cùng tự nấu cơm ăn đi học

Xem

LẬN ĐẬN ĐƯỜNG VĂN Nguyễn Thanh

Truyện ngắn Sừng sững ba dãy lầu cổ kính kiến trúc đặc biệt theo phong cách Pháp, trường trung học Lương Khê trang nghiêm tọa lạc ngay giữa khu văn hóa La -Tin -Tây đô. Vách tường nâu lạt lổ chổ vết thời gian, mái ngói mốc mưa nắng rêu phong, vá víu đó đây âm thầm cho biết ngôi trường được xây dựng từ nhiều thập kỷ. Sân trường rộng mênh mông, trước những lớp học san sát cạnh nhau, mấy hàng còng già thân cành tong teo, đổ từng vũng bóng xám xịt trên mặt đất lún phún cỏ may Buổi sáng chớm đông, da trời trong xanh không vướng gợn mây. Cơn gió nhẹ lao xao thoảng đưa vào từ sông Hậu gây cảm giác dễ chịu cho mọi người . Phòng hiệu trưởng khang trang, đường bệ ngự ngay dãy giữa đối diện trước sân cờ, hai bên là phòng giáo viên và phòng giám thị, biệt lập hẵn với lớp học của nhà trường. Hai con sư tử đá xanh gra-nit nghiêm trang nằm chầu bên mấy chậu nguyệt quế xanh um trước cửa phòng càng làm tăng vẻ thâm nghiêm của phòng hiệu trưởng. Trịnh trọng gở cặp kính cận thị dày năm độ ra khỏi đôi mắt một mí tèm hem mệt mỏi như người mới ngủ dậy, hiệu trưởng Trần Cồ nhìn Văn:- Hôm nay, tôi mời anh Văn đến bàn việc ra tờ báo Xuân dịp Tết này kỷ niệm trường ta tròn 75 năm từ ngày thành lập. Tôi biết anh có kinh nghiệm làm báo, viết lách từ lâu nên dự định giao cho anh biên tập đặc san. Anh sẽ phụ trách mọi công việc từ bên tập đến xin tiền quảng cáo, in ấn và phát hành. Sau khi ngồi yên lặng, lắng nghe, Văn nhìn hiệu trưởng: - Dạ, thưa hiệu trưởng. Tôi xin cám ơn anh đã chiếu cố và tin cậy giao tôi làm tờ đặc san. Nhưng tôi thiết nghĩ, nhà trường cũng còn giáo viên khác có khả năng thực hiện tốt công tác này. Đổi lại tư thế ngồi cho thoải mái tấm thân bồ tượng, hiệu trưởng thong thả móc một điếu thuốc Sa-lem từ trong gói mới khui ra, bật lửa vói chiếc quẹt Zippo bóng láng. Trần thủ trưởng ưỡn người ra sau, đốt thuốc, hít một hơi dài. Khói thuốc phả một làn khói màu xám đục ngoằn ngoèo như rắn lượn bay lên nóc phòng. Văn tiếp tục chăm chú lắng nghe cấp lãnh đạo:- Theo lời anh em, anh đã từng thực hiện tốt nhiều tờ báo xuân ở các trường anh dạy trước đây. Tôi có dịp xem qua các giai phẩm xuân: Niềm tin ở trung học Long Ban; Nắng mới - Cái Sâu và tờ Văn nghệ xứ Đoài do anh phụ trách trong các năm trước đây. Những tờ báo xuân anh chủ biên tôi thấy có hình thức trình bày đẹp thanh nhã, mỹ thuật, nội dung phong phú, và lành mạnh. Lê Uyên, giám học trường phát biểu thêm khích lệ Văn.Đợi cấp lãnh đạo dứt lời, Văn chậm rãi: - Xin cám ơn hiệu trưởng có lời khen chắc do hợp gout thẩm mỹ. Thực ra tôi đã cố gắng, nhưng anh em cũng có phần động viên tôi. Nhưng hoàn cảnh tôi hiện nay rất đơn 1chiếc, xin hiệu trưởng cho tôi suy nghĩ lại đôi ngày. Nếu sắp xếp ổn thỏa việc gia đình, tôi sẽ nhận công tác. Vợ hiền mất chưa đầy năm năm bởi chứng bệnh nghiệt ngã, Văn sống đơn chiếc đạm bạc trong cảnh gà trống nuôi đàn con dại. Hồi vợ Văn bất hạnh sớm qua đời chưa tới tuổi ba mươi, trong khi con cả chưa đầy mười tuổi, đứa con gái nhỏ nhất chỉ hơn tháng tuổi, anh phải gởi người chị ở quê nuôi hộ. Đứa chị kế nó mới hơn ba tuổi, anh phải gởi cho dì nó ở tỉnh bên trông nom. Dư, em trai Văn chưa lập gia đình còn ở chung nhà Văn vừa đi làm vừa chăm sóc đàn cháu thơ dại con của người anh trai sớm góa vợ. Thương anh, Dư thông cảm với hoàn cảnh người anh trót dính chân vào mãnh đất nghệ thuật văn chương đầy hệ lụy từ lúc còn nhỏ khi Văn bắt đầu say mê bút cọ: - Anh cứ nhận công tác báo chí do trường phân công. Các con anh, công việc nhà, em sẽ lo liệu. Chỉ ngại lớp dạy học thêm của anh, không biết phải giao cho ai phụ trách tiếp trong thời gian anh bận rộn thực hiện tờ đặc san xuân của nhà trường. - Anh cũng đang nghĩ tới vấn đề đó. Chắc anh phải nhờ một người bạn giáo viên thân tín đang cộng tác với anh trông hộ các lớp dạy thêm ở trung tâm văn hóa của anh. Văn cảm thấy thương vô cùng em trai trải lòng chia xẻ những trăn trở với mình. Anh chợt nghĩ vừa qua khi mới được chuyển về từ một trường huyện, do đề nghị của giám học, anh đã khắc một tấm bia bằng xi măng để ghi nhớ công ơn anh hùng liệt sĩ của quê hương và những giáo viên nhà trường đã khuất. - Công tác này anh Văn có khả năng thực hiện, tôi hoàn toàn tin tưởng ở bàn tay tài hoa của anh để làm dấu ấn ngày anh trở về ngôi trường anh học ngày xưa.Không quan tâm đến lời lẽ khéo léo tế nhị của giám học Lê Uyên tỏ ra hiểu Văn lúc đó khiến anh vẫn không thể từ chối. Bên cạnh cấp lãnh đạo như hiệu trưởng và giám học còn có những đồng nghiệp, bạn bè Văn có thái độ sẵn sàng hỗ trợ anh : Trần Lâu, Chu Tý và Bùi Mạnh. - Đây không chỉ là công tác mà còn là bổn phận của anh. Vì anh là cựu học sinh với tư cách giáo viên mới về của nhà trường. Bùi Mạnh nhìn thẳng vào mắt Văn, ra vẻ thân mật đôn đốc anh với cương vị một bằng hữu tình thâm! Văn cảm thấy bồi hồi, xúc động nhớ lại ngôi trường đầy ắp kỷ niệm buồn vui, nơi anh từng mài đũng quần suốt bảy năm từ thời học đệ nhất, đệ nhị cấp mà anh từng là lá cờ đầu trong học tập và đạo đức. Tháng nào cũng được nêu tên mình trên bảng danh dự treo cao tại một nơi trang trọng trong nhà trường. Văn hăm hở nhận công tác. Nhiệt tình, anh đội nắng trưa cháy mặt, hì hục dùng những ngón tay gầy guộc móc sâu từng con chữ con chữ đẹp tạo nên dòng thơ ý nghĩa của giám học Lê Uyên: Hồn thiêng sông núi/Xương máu tiền nhân… ! Với tinh thần trách nhiệm, Văn đã hoàn thành tốt tấm bia kỷ niệm ở sân trường trung học Lương Khê. Đôi bàn tay, ngón tay Văn xơ đỏ cả tuần vì tác dụng hóa chất của xi măng sống suốt mấy ngày cật lực làm bia kỷ niệm ở sân trường khiến anh gặp không ít khó khăn cầm phấn bút khi lên lớp. * * * Thuộc tuýp dân làng có máu văn nghệ mới chân ướt chân ráo trở về trường cũ, Văn được cấp trên phân công dạy lớp Đệ Nhị (lớp 11) chuyên Văn kiêm luôn thầy hướng dẫn lớp . Sau một cuộc tổ chức học sinh thi vẽ tranh cùng các họa sĩ giáo viên mỹ thuật Nguyễn Văn Ẩn 2(trường PTG), Nguyễn Thị Tâm (trường Đoàn Thị Điểm), Văn tất bật lên kế hoạch cho công tác báo chí của trường. Anh băn khoăn tự nhủ: - Mình phải làm sao xứng đáng với lòng kỳ vọng của cấp trên, đó cũng là để đáp đền lại công ơn thầy cô đã hết lòng dạy dỗ với nhiều kỷ niệm đẹp và tình cảm sáng trong về tình thầy trò ở ngôi trường cũ thân thương này. Thầy Dương Du Cam, nguyên soái Tao Đàn Dương Chi (2) với phong thái rất nghệ sĩ, đã dạy làm thơ Tứ tuyệt cho học sinh vào cuối giờ trên lớp, thầy Hiếu Văn Bùi Văn Nên với bài thơ Cô Gái Huế, thầy Anh Pha Nguyễn Tri Hựu với bốn bài thơ Tứ Đỗ Tường điêu luyện, Giáo sư Hội họa Nguyễn Cường dìu dắt học sinh đi vẽ ngoài trời thời còn học Đệ Nhất cấp, họa sĩ Nguyễn Robert cạnh chùa Cây Bàng hết lòng vừa dạy vẽ tranh vừa dạy minh họa bằng thơ Đường cho học trò mà không nhận phí… Thật tuyệt vời, làm sao quên được công ơn thầy cô đã dạy mình! Văn xin trường chọn cho anh những nữ học sinh tầm vóc, dễ nhìn, vui vẻ và có khiếu ăn nói thuyết phục đưa vào nhóm đi xin quảng cáo tìm nguồn tài chánh in báo, tuyệt nhiên không xin trợ cấp từ cơ quan nước ngoài theo lời khuyên của một trí thức yêu nước là anh Nguyễn Bá Thảo, giáo viên tư thục dạy tiếng Pháp tại tỉnh nhà. Mặt khác, Văn viết thông báo kêu gọi giáo viên, học sinh và toàn trường đóng góp bài vỡ cho đặc san xuân. Về ban biên tập, Văn cần sự tình nguyện ở những giáo viên có khả năng văn nghệ ở nhà trường dù công tác này đòi hỏi phải có chuyên môn và máu say mê say mê viết lách.. - Anh Văn để tụi tôi tiếp cho. Cả Trần Lâu, Chu Tý và Bùi Mạnh tỏ vẻ sốt sắng đề nghị với Văn. Anh nghĩ có người lo tiếp cũng thuận lợi. Văn phân công theo khả năng và cá tính của mỗi người. - Tôi lo chung. Còn các bạn, tôi đề nghị: Trần Lâu, giáo viên Toán, tính kim chỉ, làm thủ quỹ. Chu Tý, dạy Văn vui vẻ hoạt bát, dẫn đoàn đi các nơi xin quảng cáo. Công việc này rất quan trọng vì có tài chánh mới in được báo. Thằng Bùi Mạnh tuy dạy Lý nhưng tỏ ra có tinh thần văn nghệ tiếp tôi, ở tại trường lo thu nhận bài vở. Tôi hoàn toàn tin tưởng ở tinh thần hợp tác của các bạn. Là bạn học và lại là giáo viên cùng trường, Văn và các bạn anh đôi khi xưng hô nhau một cách thân mật tự nhiên như anh em trong một gia đình. Tám giờ sáng tại quán cà phê Thằng Cuội số 11 đường Pasteur. Nơi đây là địa điểm hội tụ của làng văn nghệ Tây Đô. Không khí u huyền bao phủ ngày đêm, triền miên với tiếng hát của các ca sĩ thời danh mang giai điệu buồn tênh, ca từ não ruột của Khánh Ly, Thanh Thúy, Chế Linh, … qua ca khúc của Trịnh Công Sơn, Trúc Phương, Thanh Sơn, … . Văn bất chợt nhớ đến câu thơ của một thi sĩ đời Đường: Thương nữ bất tri vong quốc hận/Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa (1) khiến anh cảm thấy bâng khuâng. Khói thuốc lá đục ngầu, tản mạn bay vòng vèo như rắn lượn lên trần nhà. Với vẻ mặt trầm tư, khách ngồi quán ai cũng bâng khuâng cảm thấy mình là những triết nhân! Nhóm nhà báo tài tử hiện diện đầy đủ, được phân công rõ ràng. Thời gian xuất phát đã điểm. Bộ tứ trong ban biên tập khởi sự làm việc. Chu Tý (còn gọi là Tý Sữa) hăng hái chuẩn bị dẫn nhóm học sinh đi xin quảng cáo, anh tìm đến các tọa độ đỏ là rạp hát, rạp chiếu bóng, khách sạn, công ty, tiệm buôn, nhà hàng, nhà máy xay lúa, nhà máy nước đá… và những Mạnh Thường Quân như bác sĩ, nhân sĩ… theo phương án đã vạch. Công 3việc tài chánh và biên tập sắp xếp bài vở lúc bắt đầu chưa có gì bận rộn, Trần Lâu và Bùi Mạnh còn thong dong tại trường. Để động viên anh em trong ban chủ biên, với tư cách mũi nhọn đầu tàu, Văn xung phong ôm sổ sách khai hỏa đầu tiên đi xin quảng cáo, nhắm rạp chiếu bóng Tây Đô của anh Văn, con trai bác Trần Đắc Nghĩa, một nhân vật nổi tiếng về hoạt động văn hóa ở Tây Đô. Anh Văn tính vốn hào phóng, yêu văn nghệ, vui vẻ nhận đăng quảng cáo cho rạp chiếu bóng Tây Đô trọn trang bìa 4 trang trọng của tờ báo xuân khổ lớn loại đặc san. Thấy Văn khai hỏa nhận được số tiền khá hậu, Chu Tý vô cùng phấn khởi, tiếp tục hướng dẫn nhóm học sinh phụ trách tiếp tục cuộc hành quân.. - Tý Sữa dạy Văn có duyên ăn nói, chắc chắn anh sẽ chiến thắng sau lần phát pháo đầu tiên của anh Văn. Bùi Mạnh nhìn Tý Sữa động viên. Biết công tác tài chánh là thiết yếu, Trần Lâu ngó cặp mắt kiến của Chu Tý, bồi thêm: - Tý Sữa cố gắng lên, thành công tôi sẽ thưởng cho anh và cả nhóm một chầu thịt cầy ngon ở lộ 20. Chu Tý đốt điếu thuốc Ru-bi, đưa vào miệng, rít một hơi dài, nhìn Trần Lâu: - Anh Lâu nhớ giữ lời hứa nhé. Nghe anh nói, tôi phát thèm rỏ dải rồi đây ! Trong khi các bạn đấu hót, Bùi Mạnh chậm rãi xem lại xấp bìa cứng dày màu lam nhạt dành đựng bài báo đã chuẩn bị sẵn từ hôm trước. Văn phòng hiệu trưởng có mặt hiện diện đầy đủ các thành viên trong ban thực hiện đặc san Xuân Lương Khê năm Con Khỉ. Bài vở gởi đến chủ yếu từ học sinh, giáo viên và nhà văn địa phương tương đối khá đủ về số lượng và tạm ổn về chất lượng. Tài chánh thu hoạch từ việc đi xin quảng cáo và do Mạnh Thường Quân ủng hộ khả dĩ tiến hành được công tác in báo. Hiệu trưởng Trần Cồ kêu gọi người tình nguyện lên Sài Côn xin kiểm duyệt để được phép in và phát hành. Các thành viên trong ban phụ trách trực tiếp báo xuân như Trần Lâu, Chu Tý, Bùi Mạnh có lý do chính đáng không thể rời trường xa vợ con và công việc riêng tư bận rộn, không thể lên ở Sài Gòn vài tuần để lo hoàn tất kiềm duyệt và công đoạn in báo. - Anh Văn, người chủ trương biên tập tính sao để hoàn tất cho kịp đặc san vào ngày mùng mười tháng chạp âm lịch, trước khi nghỉ Tết Nguyên Đán. Trần Cồ nhìn Văn: - Tôi đề nghị anh Văn nhận công tác này vì anh đã quen việc . Bùi Mạnh nhìn Văn rồi quay sang Trần Cồ xem dò ý kiến. - Phải đó. - Rất hợp lý. Cả Lâu và Tý nhìn mọi người trong phòng họp với thái độ tán thành. - Như hiệu trưởng và các anh đã biết hoàn cảnh tôi rất neo đơn. Tôi không thể vắng mặt lâu ở nhà vì con cái đều nhỏ dại, không mẹ, không ai trong nom trong khi kinh tế gia đình cũng không khá. Văn trần tình trước hiệu trưởng, giám học và các thành viên còn lại trong ban thực hiện báo xuân. * * * 4 Không ai chịu đi Sài Gòn xin kiểm duyệt in báo. Vì lẽ người nào đảm nhiệm công việc này ngoài việc nghỉ dạy ở lớp phải dạy bù cho học sinh sau khi hoàn thành công việc, còn phải xa gia đình, vợ con và gác lại công việc làm ăn riêng ngoài ra còn cần có khả năng giao tiếp với cơ quan cấp phép in báo cả việc trang trí, sửa bài, cò bài và viết bài đệm khi cần. Như vậy là với tư cách chủ biên, Văn phải lĩnh trách nhiệm này theo sự chỉ định của hiệu trưởng Trần Cồ và giám học Lê Uyên. Văn cảm thấy vô cùng băn khoăn vì đám con ở nhà và lớp dạy thêm của anh tại Tây Đô trong thời gian anh phải đi xa lo in báo. Văn thầm nghĩ anh xa nhà vì công việc nhà trường thì ai trông coi cái cho anh. Có chú chúng nó rất mực yêu thương đàn cháu mồ côi nhưng sao có thể bằng chính cha ruột của chúng nó. Nhưng sau cùng, Văn cũng phải chấp nhận. Những ngày bắt đầu ở Thủ Đô làm báo, Văn gặp không ít việc phải giải quyết. Tìm nhà bạn quen ở nhờ nhưng cũng phải lo sao cho gia đình bạn đỡ tốn kém. Lại phải liên hệ việc xin giấy phép kiểm duyệt để in báo hợp pháp mới có thể phát hành. Tốn kém ăn ở, đi lại và giao dịch với nhà in, trà nước anh em công nhân nhà in cho đặc san ra kịp thời gian đã định. Lúc đầu, Văn gọi điện về trường gởi thêm tiền lên cho anh. Những lần sau cạn túi, Văn ngại đành mượn thêm tiền của bạn ở Sài Gòn để trang trải. Ở nhà anh, trong những lúc đứa em trai đi công tác xa, tình cảnh gia đình gặp không ít khó khăn. Dù có người chị trong nom nhà cửa, nuôi giùm các cháu, có ngày hết gạo phải mượn nhờ hàng xóm. Nhiều ngày anh bần thần vì phải ngủ đêm với anh em công nhân tại nhà in để cò bài. Nhưng Văn tự nhũ: - Đã nhận nhiệm vụ, mình cố hoàn thành tốt đẹp sao cho không phụ lòng tin của thượng cấp dù có phải gặp bao gian lao trở ngại. Tờ báo là tiếng nói của học sinh, giáo viên, nhân viên, nó cũng thể hiện dấu ấn sinh hoạt văn hóa giáo dục, là linh hồn và truyền thống thiêng liêng của trường ta. Và Văn cảm thấy vui mừng thoáng chút tự hào mong tờ đặc san xuân Lương Khê được chính thức chào đời như đứa con tinh thần xinh đẹp, kháu khỉnh của tập thể trường. Nhà in Nguyễn Bá Tòng bệ vệ tọa lạc với ba tầng cao uy nghi tại đường Bùi Thị Xuân giữa trung tâm Sài Gòn. Tiết trời buổi sáng se lạnh, người đi bộ dập dìu, ép mình trong những chiếc áo ấm len xám sang trọng. Ngoài đường, đủ loại xe cộ qua lại nườm nượp tạo nên âm thanh ồn ào thường ngày chốn thành đô, nhưng không át nổi đôi lúc tiếng bom B52 đì đùng vọng lại từ chiến khu D, hay tiếng phi cơ gầm rú chói tai từ phi trường Tân Sơn Nhứt trong không gian gần của một đất nước đang chịu cảnh khói lửa tóc tang. Trên lề một mép đường rộng sạch sẽ trước cửa nhà in, báo xuân trong những gói kỹ lưỡng từng bao kín đáo bằng giấy dầu chất chồng thành một khối to đợi xe taxi đến chở ra bến xe Miền Tây. Bên cạnh đống báo chông chênh, dưới một tán sao già, Văn đứng nhìn quanh quẩn chờ xe đến. Bỗng từ xa, bóng một chiếc xe du lịch bóng lộn sang trọng chậm rãi bò tới, từ từ dừng lại trước cửa nhà in. - A, anh Trần Mầu, hôm nay đi Sài Gòn lo việc làm ăn phải không ? Văn vui mừng, đánh tiếng khi bất ngờ gặp bạn đồng nghiệp cùng trường từ tỉnh nhà lên Sài Gòn. - …. .. ! Mầu thong dong rời tay lái bước xuống xe, thản nhiên: - À, báo in xong chưa anh Văn. Tôi lên đây có việc riêng.- Đã hoàn tất, tôi đang đợi xe đến chở báo về, nhưng chờ mãi mà không thấy taxi hay xe xích lô tới. Suy nghĩ một chút, Văn vui vẻ nhìn Mầu: 5 - Chỉ có mấy gói nhỏ, chắc gởi nhờ băng sau xe anh chở về trường mình cũng đủ chỗ. Tôi chỉ nơm nớp lo trời mưa. Sao năm nay trời sang chạp mà vẫn có những cơn mưa bất chợt trái mùa. Tôi không yên tâm anh ạ. ! Vừa nói, Văn vừa trông lên bầu trời đang vần vũ mấy đám mây đen. Thấy Mầu tự lái xe đi một mình, bên băng sau còn trống trải, Văn muốn nhờ Mầu. - Tôi đi lo chuyện buôn bán, xe không còn trống chỗ ! Trả lời xong, Mầu lạnh lùng lên xe, rồ máy nhấn mạnh ga hướng về chợ Bến Thành ! Mấy cuộn khói vô tình xám xịt vụt tuôn ra từ đuôi ô tô, bỏ lại phía sau bóng Văn một mình với chồng báo xuân nằm chông chênh bên lề phố lác đác lá khô âm ấp bụi đường. * * * Mấy chồng báo xuân Lương Khê khổ lớn, in đẹp, bó kỹ được Văn thuê xe xích lô chở ra bến xe Miền Tây đưa về Cần Thơ. Hôm sau, nhà trường phân công cho các em Nhân, Hoàn, Quyên đi bán ở các trường học và cơ quan trong tỉnh. Buổi sáng ngày cuối chạp, tiết đông trời se lạnh. Sau khi duyệt cuộc thi Báo tường, Văn cùng các bạn giáo viên được thông báo đến Thủ quỹ nhà trường lãnh lương. Mọi người vui vẻ đợi thần tài gọi tên mình. Đến lượt Văn, thầy Cương dò tên và đưa sổ lương cho anh ký tên vào. Văn vô cùng ngạc nhiên, lòng cảm giác đau nhói khi nhìn thấy con số lương của mình bị bớt một phần tiền đáng kể mà không được ai giải thích… Ba thành viên còn lại trong ban thực hiện đặc san xuân im hơi lặng tiếng. Cà người hăng hái động viên Văn tích cực nhất trong cấp lãnh đạo nhà trường được coi là sính văn nghệ cũng không có được nửa lời tiếng giải thích cho Văn hiểu rõ nguồn cơn. Sau này Văn tự hiểu ra : cấp chóp bu quy cho Văn đã lợi dụng cơ hội đi làm báo để ăn nhậu phung phí tiền bạc nhà trường gởi lên….trong khi anh là người từ nhỏ đã không bao giờ uống rượu.Tiếp nối các tháng sau, Văn vẫn lãnh không trọn đồng lương của mình trong thời gian gần một năm. Lương dạy giờ hiếm hoi ít ỏi lại bất ngờ bị đột ngột xén bớt khiến Văn lại gặp khó khăn trong việc giải quyết tài chính ở gia đình. Gần một năm mỗi ngày, Văn phải vất vả thức sớm từ ba giờ khuya chạy xe ôm tìm thêm chút tiền còm gở gạc trong cảnh ngặt nghèo. Văn đau buồn lại bị lận đận y hệt vừa qua, trong thời gian anh đã bỏ nhà cửa, con cái trong cảnh neo đơn, hăm hở đi in đặc san tận Sài Gòn. Một xuân không mùa chập chùng hệ lụy sắp đến trong nghiệp đời gắn bó với nghệ thuật văn chương của Văn. Thời tiết mấy hôm nay bắt đầu trở rét. Trong căn nhà gỗ nhỏ vách lá đơn sơ, đàn con sớm mồ côi mẹ hằng ngày bữa cháo bữa cơm. Ngồi một mình thở dài ngao ngán, Văn bất giác nhớ đến câu thơ của một thi sĩ nổi tiếng : Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch/Lập thân tối hạ thị văn chương (2). 27. 1. 2020 NT(1) Ca nữ không hay sầu mất nước/Bên sông hát khúc ”Hậu Đình Hoa”- Đỗ Mục (803-853)Thi sĩ đời nhà Đường-Trung Quốc.(2) Tạm dịch: Mỗi bữa ăn, không quên nghĩ đến công việc của ngòi bút/ Thấp kém nhất là lập thân trong đời bằng con đường văn chương.

Xem

NGÀY XUÂN COI HÁT CỌP - Phương Đình

Tuổi thơ tôi là những năm dài bão giông ly loạn ở làng quê trong những ngày thực dân Pháp trở lại xâm lăng Nam bộ. Ngôi trường tiểu học cổ kính bằng gạch đã rêu phong, bên cạnh đình làng đã bị giặc bắn phá nát tan trong một trận ruồng bố dữ dội của bọn giặc Tây

Xem

MÀU TẾT QUÊ XƯA

Nguyễn Thanh MÀU TẾT QUÊ XƯA Truyện ngắn Tôi nhớ lại cả một thời thơ ấu xa cách làng quê ra tỉnh học, vào buổi sáng muộn thứ bảy cuối tuần những ngày giáp Tết, sau lễ đưa Táo Quân về trời báo cáo lại tin tức ở trần gian, tôi thường hẹn các bạn học tại nhà trọ bên bờ sông Cái Khế, để cùng nhau về quê nghỉ Tết. Bầu trời cao lồng lộng trong xanh, mượt mà tráng gương như được quét sạch bởi cơn gió đông hắt hiu se lạnh từ con sông Hậu mênh mông, xao xác thổi về hơn mấy tuần qua. Với túi sách vở trĩu nặng và quần áo lủ khủ bên hông, anh em vui vẻ, mặt mày hí hởn, lũ lượt kéo đi một đoàn như bầy vịt. Ôi, biết bao nhiêu ước mơ trong sáng hiện ra trong tâm khảm khi tôi được về gặp lại cha mẹ yêu thương, anh em ruột thịt ở quê nhà sau mấy tháng dài xa cách. Qua khỏi chiếc cầu sắt Cái Khế cũ kỷ, màu đen bạc thếch với mưa nắng thời gian và tang thương binh lửa còn lại từ thời thực dân, chẳng mấy chốc, anh em bè bạn tôi lại cảm thấy hồi hộp đi qua cầu Sáu Thanh bằng gỗ, cao chông chênh để bước vội về bến bắc Cần Thơ (phà /le bac). Ngày ấy chưa có chiếc cầu thế kỷ Cần Thơ nối nhịp đôi bờ sông Hậu như hiện nay, mỗi lần muốn qua sông, không đi đò ngang đôi khi nguy hiểm vì sóng to gió cả, tôi phải đi phà mất hơn tiếng đồng hồ. Nhưng đứng trên phà bồng bềnh qua sông, cảm giác dễ chịu trước không khí trong lành mát mẻ, nghe sóng vỗ lách tách mạn phà, tôi có dịp thả hồn thơ phiêu lãng : Thành phố lên xuân cả bốn mùa/ Mai đào không đợi sắc hoa phô/ Lưng trời chưa có bầy chim én/ Xuân cũng theo về năm ngón thơ, hoặc trầm tư vu vơ trước cảnh trời rộng sông dài. Hậu giang vào xuân là con sông thơ, đẹp như một dải lụa màu, lác đác thuyền ngư, long lanh ánh dương giữa những hòn tiểu đảo xanh um thủy liễu : Tiểu đảo mươi chòm xanh thủy liễu/ Trường giang một dải rợp ngư thuyền. Chiếc phà cao to, hai tầng, chở nặng lữ hành và xe cộ, gầm gừ như con hà mã, lừ đừ cặp bến Bình Minh, thả anh em tôi, hành khách và xe cộ lên bờ. Xế trưa, trời đứng bóng, tôi và các bạn thả bộ dọc theo con hương lộ mặt đường còn lởm chởm đá núi và đất nung, lẹp bẹp hướng về phía chợ Tân Quới, nơi có mấy cây sao cổ thụ cao lênh khênh đứng cạnh đình làng. Dọc đường làng, tôi cảm thấy trong lòng dậy lên niềm vui ấm áp khi nhìn nhà 1cửa, cảnh vật hai bên trong những ngày cuối chạp đã bắt đầu nhuốm lên màu Tết. Những vỉ bánh tráng dựng lớp lớp trước sân phơi, những nia bánh phồng, sàng chuối khô hương thơm ngào ngạt, nằm san sát trên mái nhà bắt đầu quyến rũ đàn chim trao trảo sáng chiều không ngớt vần vũ bay quanh. Trong không gian trong sáng chờ xuân, dọc đường, tôi thỉnh thoảng bắt gặp chủ nhà những gia đình khá giả, đang xúm xít lo quét vôi lại nhà cửa, chuẩn bị đón chào xuân mới. * - Thưa ba mẹ, con mới về. - Ừ Thanh, con mới về . Ba mẹ biểu lộ vẻ vui mừng nhìn lại khi thấy tôi vừa về đến nhà rồi tiếp tục công việc. Ba tôi trở ra sân cúc cúc, kíp kíp gọi bầy gà vịt cho ăn suất chiều để lùa vô chuồng. Mẹ tôi ở góc nhà sau đong mấy lít nếp tốt, chuẩn bị gói bánh tét cúng ông bà. Chị ba tôi bên chiếc cối đá, đang lo xây bột làm bánh ngoài hiên nhà trong khi chị tư tôi đang ngồi lặt một rỗ hành kiệu tươi rói hăng hắc hương nồng chuẩn bị làm dưa chua. Gác tạm lại việc sách đèn sang một bên để lo dọn dẹp tiếp gia đình vì ba mẹ tôi đã già yếu. Việc thóc lúa ruộng đồng coi như các chị đã giải quyết xong, mấy cái đìa to đậm đặc cá tôm ngoài ruộng, các chị tôi cũng đã tát cạn, bắt cá rọng vào khạp từ mấy ngày qua. Sáng sớm hôm sau, tôi sang nhà bác Tư nhắc các anh họ tôi chuẩn bị giở đống chà lớn bên cây cầu dừa dưới sông, lấy cá chia cho bà con cùng sử dụng trong các ngày Tết. Thời gian lơi bớt công việc, tôi lãnh phần thay thế chị tôi, lau chùi mấy bộ lư đồng trên bàn thờ ông bà, tổ tiên, và sử dụng cây chỗi cán dài, quét sạch bụi bặm, mạng nhện bám trên trần nhà. Trước ngày ba mươi Tết, công việc ở quê dồn dập nhiều thứ. Có đêm các anh họ rủ tôi ra đồng cắt những bụi nếp vừa quá thời con gái đem về rang trong chão lớn, sau đó đem ra cối quết làm cốm dẹp. Tôi rất thích đêm đêm được xem các anh tôi giả cốm dẹp hoặc quết bánh phồng. Tiếng chày ba (*) cụm cùm cum giả nếp làm cốm dẹp hoặc tiếng chày gỗ nện bình bịch vào khối nếp to nấu chín trong cối làm bánh phồng, tạo nên một âm vang trữ tình đậm hồn dân tộc, quê hương trong những đêm thanh vắng ở nông thôn ngày xưa. Ban ngày, mẹ tôi ngồi bên ngoài hiên nhà tráng bánh cho chị ba tôi đặt bánh vào vỉ mang đi phơi. Chị Tư tôi lo ép chuối, phơi khô để làm mứt. Thằng Tý em trai tôi o bế lại mấy chiếc lọp, nò đi bắt cá dưới sông hay ngoài ruộng. Sáng tin sương không ra vườn, ba tôi dành thì 2giờ chăm sóc cho mấy chậu hoa mai, hoa tử kinh để trưng bày vui nhà trong mấy ngày xuân. Buổi trưa rảnh rang công việc nhà, ba tôi thong dong vừa hút thuốc vừa săn sóc mấy chú chim cu xinh xắn để ban ngày nghe tiếng gáy cúc cu vui vui của chúng. Mấy con gà cảnh sắc lông sặc sỡ cũng được ba tôi đặc biệt chăm sóc để ban đêm được nghe tiếng gáy dõng dạc báo thức ò - ó - o rất sảng khoái của chúng. Trong không khí mát mẻ ngày chớm xuân ở làng quê xưa, cứ bắt đầu vào hạ tuần tháng chạp, dưới sông bắt đầu xuất hiện rộn ràng mấy chiếc ghe nhỏ gắn máy đuôi tôm Kohler chạy khắp làng trên đó có những người xem ra không phải là người trong làng. Họ chính là nhân viên gánh hát đi cổ động cho chương trình hát Tết của đoàn. Ngồi trên chiếc ghe trên mui treo phất phơ lá cờ biểu tượng của đoàn hát, họ gióng trống dập dồn, phát loa inh ỏi, quảng cáo cho đoàn hát đang đóng đô tại nhà lồng chợ xã để biểu diễn phục vụ công chúng mộ điệu cải lương trong mấy ngày xuân . * Màu Tết nhà tôi ở quê thực sự thể hiện rõ nét bắt đầu từ thời điểm đưa ông Táo về trời. Trước đó một hôm, đã có mấy em nhỏ chạy lăn xăn ngoài đường hô to : Cò bay, ngựa hạy, đưa ông Táo về trời đây hoặc chịu khó đến từng nhà mời mua loại vàng mã vẽ đủ các hình thù nghuệch ngoạc để đốt trong lễ đưa tiễn Táo quân về trời. Trên các nẻo đường vào thôn xóm bắt đầu xuất hiện một số người ham vui lén lút chơi bầu cua cá cọp, xí ngầu lác hay gầy sòng bạc đỏ đen sát phạt nhau, thường không tránh khỏi xảy ra gây gổ cải lộn, đôi lúc dẫn đến đánh nhau. Nhóm thanh niên này thì tổ chức đá gà ăn tiền trong một bãi sân rộng khuất sau một lùm cây rậm, trong khi một nhóm người khác bày tiệc nhậu nhẹt, rồi mày chén tao chén, ly cạn ly đầy, lắm khi cũng dẫn đến chuyện không hay giữa anh em cùng trong một chiếu rượu. Ba tôi suốt đời chỉ biết lam lủ lo làm ăn, không thích rượu chè dù chỉ một chút nhắp môi. Ba tôi trải nghiệm được cái hại khôn lường của những người quá chén nên anh em tôi theo gương cha, không ai là đệ tử của Lưu Linh, một đời chỉ biết lo học hành, làm ăn. Không khí mừng xuân đón Tết ở nhà tôi mỗi năm chỉ kéo dài trong thời gian khoảng một tuần mặc dù trong nhà ai nấy cũng chuẩn bị sẵn mọi thứ từ sau ngày hai mươi ba tháng chạp âm lịch. Không như một vài thằng bạn, những ngày gần Tết, được nghỉ học, chúng nó quẳng sách vở sang một bên rồi bỏ nhà đi chơi bời xả láng, tôi giảm bớt học hành để giúp đỡ ba mẹ tôi dù mọi việc trong gia đình tôi đã có hai chị giỏi giang lo liệu tươm tất. Với tôi, ngày Tết truyền thống thực sự có ý nghĩa chỉ cần cô đọng trong vài ba ngày xuân thiêng liêng của họ tộc đã được ba mẹ tôi sắp xếp thành lệ mỗi năm. Hai cái đìa đậm đặc đủ 3các loại cá ở sau ruộng được hai chị tôi gồng vai tát cạn hai hôm trước và đống chà lớn sung túc cá tôm dưới sông, ba tôi đã nhờ các anh họ tôi giở hôm nay, để ngày mai tôi và thằng Tý em tôi mang cá tôm và bánh trái đi biếu cho bà con nội ngoại tôi ở làng bên. Trước đêm trừ tịch hai hôm, cũng như bao nhiêu gia đình khác trong làng, ở nhà tôi bao nhiêu công việc xem như đã chuẩn bị chu đáo cho mấy ngày đầu quan trọng nhất trong năm của một đời người. Trước thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, ba tôi đã lúi húi tìm lá cau khô làm đúng bài bản chiếc bùa bát quái tứ tung ngũ hoành treo trên ngọn cây nêu trước cửa nhà để trừ tà ma. Tinh sương ngày ba mươi Tết, theo lời nhắc nhở của ba tôi, các chị đã lo đủ một mâm ngũ quả gồm các loại trái cây tốt là được mà không quá rặp khuôn theo lề thói ước lệ phải tìm mua cho đúng các loại trái : Cầu (mãng cầu) - Sung - Dừa - Đủ (đu đủ) - Xoài, năm thứ trái cây biểu tượng cho cụm từ mà người ta hay nói tếu cho vui miệng : Cầu sung vừa đủ xài . Trên nhiều tình huống xử sự của ba mẹ, tôi phát hiện ra một hiện thực chí lý là song thân tôi hay chú trọng đến nội dung, tinh thần hơn là hình thức, bề ngoài vì lẽ : Chiếc áo không làm nên thầy tu (L’habit ne fait pas le moine). * Đêm trừ tịch miền quê ngày xưa có phần yên ắng, không giống bầu trời sáng lòa với những vầng pháo hoa nổ lụp bụp trên bầu trời và tiếng ca hát rộn ràng từ máy phát thanh ở thành phố thời hiện đại. Không gian ngày Tết nơi thôn bản tĩnh lặng hơn với sinh hoạt ngầm trong phạm vi ấm cúng giữa các thành viên ruột thịt trong gia đình. Ba tôi vốn là một ông đồ nặng hồn thơ, mỗi năm có truyền thống tống cựu nghinh tân (tiễn cũ đón mới) bằng ít vần thơ . Đêm trừ tịch, ngay sau thời điểm thiêng liêng nhạy cảm nhất của năm mới, năm nào ba tôi đều ăn mặc đàng hoàng, ngồi vào bàn viết. Bên bình trà nóng mới pha, và gói thuốc lá bình dân, ba tôi bắt đầu viết lời khai bút đầu năm bằng một bài thơ tuyệt cú dù hôm nay tôi chẳng còn nhớ được câu nào. Bài thơ này là thông điệp đầu năm của nhà thơ nghiệp dư nói lên lời chúc lành tốt đẹp, gởi cho bạn bè, bà con khi gặp gỡ, thăm viếng nhau trong những ngày xuân. Nơi một góc ngoài hiên nhà, các chị tôi đang cẩn thận cho thêm củi vào chiếc lò đất, chăm sóc nồi bánh tét to kềnh đang sôi sùng sục trên ngọn lửa bập bùng như muốn quét sạch bóng tối của một đêm không trăng, thỉnh thoảng vọng lại từ xa mấy tiếng gà gáy sớm báo hiệu sang khuya. Ở quê tôi ngày xưa, mùng một Tết được coi là ngày đoàn tụ chính thức của gia đình, ít ai ra khỏi nhà. Trường hợp con cái lớn đã trưởng thành có gia đình ra riêng, ở xa thì hôm ấy phải về thăm cha mẹ cho phải đạo : Mồng một Tết cha. Dù vậy, mọi người trong nhà vẫn ăn mặc đẹp, bánh trái, trà nước chuẩn bị đầy đủ sẵn sàng trên bàn như đang sắp sửa đón 4khách quý. Riêng tôi, là con trai cả trong nhà, có bổn phận đến viếng nhà bác tôi để mừng lạy ông cố sau đó tặng quà cúng Tết. Ngày mồng hai, theo truyền thống gia đình, anh em tôi ăn mặc đàng hoàng, có thể bắt đầu xuất hành đi thăm lần bà con, bè bạn gần xa. Ba tôi tính kỹ lưỡng, nghiêm túc luôn nhắc nhở những điều hay cho anh em tôi trước khi đi đâu trong những ngày đầu năm. Bởi lẽ, trong những ngày xuân thiêng liêng, sự hiện diện tại nhà người khác thầm mang ý nghĩa đi xông đất, đem may mắn đến cho họ nên ngoài y phục ăn mặc đàng hoàng, sáng sủa, chúng tôi còn cẩn thận giữ gìn cả lời ăn tiếng nói. Mục đích sao cho thể hiện được nhân cách của mình sự tôn trọng người khác để làm vui lòng mọi người trong khoảnh khắc tốt đẹp đầu năm. Thiện ý của ba là muốn nhắc tôi tư tưởng trải nghiệm của người xưa : Khởi đầu tốt đẹp, mọi sự về sau được suôn sẻ : Nguyên trinh hanh thông. Buổi sáng mồng ba bắt đầu canh tư, lúc mấy con chim trao trảo ngoài vườn mận nhà sau báo hiệu bằng mấy tiếng lảnh lót reo vui, đánh thức cả nhà. - Nồi nước sôi chưa bà, để tôi làm gà ? Giọng vui vẻ, ba tôi hỏi mẹ đang lúi húi làm việc trong nhà bếp .- Sắp sôi rồi đó ông. Mẹ tôi biết ý, đã chuẩn bị nồi cháo gà chu đáo để ba tôi cúng đầu năm vào ngày mồng ba Tết. Nhúng nước sôi, đem ra nhổ sạch lông gà xong, ba tôi đặt phần thân gà trần trụi như nhộng vào nồi cháo đang sôi sùng sục trên bếp lửa bập bùng và cố ý giữ lại cặp chân gà. Không khí gia đình ấm áp với sinh hoạt rộn ràng của những ngày mới, như đã thành lệ, ba tôi cầm đôi chân gà với những ngón cong queo tội nghiệp rồi ngắm nghía, trầm ngâm. Vui vẻ ra mặt, nheo nheo đôi mắt bên hai vành đã nhuốm hình dấu chân chim, sau tròng kính lão, ba tôi thao thao bất tuyệt. Thật không khác nào một chiêm tinh gia lão luyện hay nhà phong thủy chuyên nghiệp khiến tôi phải đầu hàng ba vô điều kiện! - Năm nay, nhà mình sẽ làm ăn phát đạt. Mọi người đều khỏe mạnh. Ruộng rẫy mình trúng mùa lớn và thằng Năm - tác giả bài viết - sẽ thi đậu Tú Tài, vào sư phạm. Còn Thằng Tý em nó lên trung học, được cấp học bổng, rồi du học nước ngoài. Các em út nó cũng sẽ học hành tiến bộ hơn ! Ngày ấy, đã học sang đệ nhất cấp, tôi vẫn ngây thơ ngờ nghệch, không biết đã dựa trên cơ sở nào ở cặp chân gà khẳng khiu co quắp mà ba tôi đã tỏ ra làu thông chuyện quá khứ vị lai như thế ! Mồng ba tết thầy, với lời lẽ dịu dàng khuyến khích, ba mẹ tôi không quên nhắc nhở đến viếng thăm những thầy cô ngày trước đã dạy dỗ và thầy cô hôm nay dù 5các vị ân sư ấy có ở nơi xa xôi cách trở dường nào : quan tâm đặc biệt đến những thầy cô đang gặp cảnh khó khăn trong cuộc sống túng thiếu, tuổi cao hay bệnh tật. Ngày trước, không mấy khi học trò có hiếu dám thẳng thừng gởi tiền cho thầy cô trong bao thư, dù có thực dụng như thời hiện đại kim tiền hôm nay. Yêu thương kính trọng, ý thức được công lao dạy dỗ của thầy cô, vào ngày những mùa Tết năm xưa, tùy theo hoàn cảnh, chúng tôi chỉ dám thể hiện lòng biết ơn sâu nặng bằng cách mang tặng thầy cô con gà, con vịt xin của ba mẹ hoặc hộp sữa ký đường, vài ký gạo, lít nếp, củ khoai … với cung cách lễ độ và lời biết ơn thốt ra từ sâu thẳm trái tim mình. Làm như vậy, thực lòng tôi mong bớt đi nỗi niềm tri ân còn canh cánh trong lòng, chứ làm sao tôi có thể đền đáp được chút công lao dạy dỗ lao tâm khổ trí của thầy cô, cũng như sự hy sinh cao cả trong thâm tình sinh thành dưỡng dục của mẹ cha : Thứ nhất ơn nặng dưỡng sinh/ Thứ hai nghĩa trọng là tình ân sư . Mãi cho đến khi học hành thành đạt ra trường, tôi theo nghề gõ đầu trẻ và lập gia đình. Cứ mỗi độ nhìn chim én bay về báo hiệu tin xuân, tôi cảm thấy trong lòng càng có bổn phận nhiều hơn đối với thầy cô ngày trước của tôi. Gắn bó suốt đời với nghề dạy học, am hiểu hoàn cảnh đặc biệt và tâm tư sâu kín của người cầm phấn, tôi không ưa những câu lý thuyết suông hoặc huênh hoang máy móc hét khẩu hiệu: Tôn sư trọng đạo chỉ đậu nơi chót lưỡi đầu môi của một số người đạo đức ảo. Không phải đợi đến ngày 20/11 mỗi năm, tôi mới biểu lộ lòng biết ơn đối với tất cả những thầy cô đã thực lòng dạy chữ để cho đời tôi có ý nghĩa. Ấn tượng sâu đậm trước hết với những thầy cô đầu tiên đã cam chịu khổ cực dạy tôi bập bẹ đọc từng chữ a, b … khi mới vào học trường sơ đẳng tại làng quê. Nhưng chua xót thay ! Những vị ân sư khả kính ngày xưa ấy giờ đây hầu hết đã hóa ra người thiên cổ. Hôm nay, trong không gian đầm ấm, ngào ngạt hương xuân, rạng ngời màu Tết, tôi vui Tết với hoa mai hoa đào rực rỡ thắm tươi, bên những dĩa bánh mứt thơm ngon và bữa ăn đầy đủ cao lương mỹ vị, với sự hiện diện của thân nhân học tộc và anh em bè bạn. Trước bàn thờ tổ tiên nghi ngút khói hương, tôi tự hỏi : Ta đã làm được gì có ý nghĩa trong những ngày qua và từ nay còn phải làm gì thêm để không bị coi là mất gốc, để khỏi phải hổ thẹn với ông bà, tiền nhân trong một đất nước Thuấn Nghiêu thịnh trị thanh bình. Xuân Kỷ Hợi. 2019 Nguyễn Thanh *. Giả gạo chày ba : Ba lực điền chuyên nghiệp, mỗi người cầm 1 chày, đứng cách đều khoảng quanh cối, giả theo từng chu kỳ với 3 nhịp chày khác nhau vị trí. Tại cùng thời điểm mỗi nhịp, trong cùng lúc chày 1 nện xuống phần gạo giữa lòng cối (nghe tiếng cụp), thì chày 2 nhịp trên miệng cối (nghe tiếng cum) trong khi chày 3 đang giơ lên khoảng không, như nện vào không khí, không gây ra tiếng. Đó là “ Giả gạo chày ba ” 6

Xem

VỚI HÀ NỘI, MÙA XUÂN Tùy bút Diễm Thi

VỚI HÀ NỘI, MÙA XUÂN Tùy bút Trời không nắng cũng không mưa Chỉ hiu hiu gió cho vừa nhớ nhung Hồ Dzếnh Với Hà Nội, từ cuối Việt, dù hiếm khi được về thăm cội nguồn đất mẹ nhưng tôi mãi ấp ủ tự sâu thẳm trái tim mình hình bóng thủ đô yêu thương nơi đỉnh đầu tổ quốc. Có lẽ tình cảm “nhớ Bắc” trĩu nặng trong tâm tư thi tướng Huỳnh Văn Nghệ trong suốt hai mùa binh lửa cũng là nỗi nhớ khôn nguôi trong tâm hồn người Nam bộ như tôi vốn đã có nguồn cội hơn mấy trăm năm trước từ vùng đất Thăng Long lịch sử : Ai về xứ Bắc, ta đi với/ Thăm lại non sông giống Lạc Hồng/ Từ thuở mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long. Ngay từ tuổi ấu thơ vụng dại, khi còn ngồi trên ghế nhà trường, những trang lịch sử vàng son và nền văn học nghệ thuật rạng rỡ của nước nhà đã sớm đưa tôi sớm đến gần gũi với thủ đô rồng bay hơn nghìn năm xây dựng, khiến tôi thêm quyến luyến mến thương đất nước và con người của đô thị ba mươi sáu phố phường. Hà Nội, thuở mới chào đời, với tôi, cách mạng tháng Tám thành công rực rỡ đã mang ý nghĩa một mùa xuân chói lọi : Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945) nơi quảng trường Ba Đình lịch sử, xóa tan xích xiềng nô lệ gần trăm năm từ thực dân Pháp, thực sự khai sinh cho một nước Việt Nam độc lập tự chủ trên thế giới : Rực rỡ sao vàng , hoa vĩ đại/ Năm cánh xòe lên năm cửa ô… Và Hà Nội, tiếng reo hò bất tuyệt/ Vang sang bờ nọ Thái Bình dương (Vũ Hoàng Chương). Tôi yêu hồ Hồ Hoàn kiếm lịch sử đẹp như mơ với tháp Rùa cổ kính, lung linh dưới mây trời, qua giai điệu trầm hùng một ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ kháng chiến Phan Nhân, phản ánh không gian huyền thoại nhân dân thủ đô một thời hào hùng oanh liệt đấu tranh chống đế quốc Mỹ : Mặt Hồ Gươm vẫn lung linh mây trời/ Đường lộng gió thênh thanh năm cửa ô/ …Hà Nội đó niềm tin yêu hy vọng/ Của núi sông hôm nay và mai sau/ Chân ta bước lòng ung dung tự hào/ Kìa nòng pháo vẫn vươn lên trời cao (Hà Nội, niềm tin và hy vọng). Tinh thần ‘Diệt phát xít’ hay đấu tranh chống thực dân đế quốc bảo 1vệ đất nước vẫn hừng hực cháy bừng trong âm nhạc, văn chương của ‘Người Hà Nội’ : Thơ nhạc Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu trữ tình, óng ả, lồng lộng hùng khí chiến đấu như những bản hùng ca hay áng thơ xuân, đẹp như hoa đào hoa mai ngày xuân (Đất nước, Bài ca xuân 61, Bài ca xuân 68…), tạo nên ‘dáng đứng Việt Nam’ tầm cao nơi con người Hà Nội. Thiêng liêng vô cùng Văn miếu, dấu ấn muôn đời, biểu tượng của văn học và trí thức Việt Nam ; Ngả Tư Sở, nơi hội tụ của tao nhân mặc khách tài hoa ba khắp miền Tổ quốc và Phố Phái cổ kính mang dáng vẻ u hoài trầm mặc và thấm đẫm hồn thơ. Tôi yêu trời Hà Nội sang mùa, không mưa không nắng, chỉ với một chút gió mong manh cũng gợi nhiều nhung nhớ : Sáng nay, Hà Nội sang mùa/ Hồ Gươm tóc liễu, tháp Rùa lung linh ( Hồ Dzếnh). Tôi ngưỡng mộ vô cùng con người Hà Nội, đã thể hiện trọn vẹn tài năng và khí phách trong những cuộc đấu tranh sống mái với bọn giặc ngoài, kẻ thù chung của dân tộc để bảo vệ đồng bào và xây dựng đất nước trong suốt mấy mùa chinh chiến. Sức mạnh con người Hà Nội, vào Nam chiến đấu trong trận ‘Tổng Công kích Xuân Mậu Thân’ 1968 và tham gia trong ‘Chiến thắng Mùa Xuân’ lịch sử 1975, là biểu tượng cho sức mạnh vô địch cả ba miền, tượng trưng cho tinh thần dũng cảm của bộ đội chiến đấu trong ‘Mùa Hè Đỏ Lửa’ 1972’ ở Quảng Trị, ngay chiếc lưng gầy mang hình đất nước, cho ‘12 ngày đêm Mặt trận Điện Biên Phủ trên không’, cho ‘Chiến thắng Thu-Đông’ ở núi rừng Việt Bắc (1947), cho sự thành công to lớn đầy ý nghĩa của ‘Cách mạng Tháng Tám’ năm 1945 và cho tinh thần chiến thắng ngoại giao đỉnh điểm trước kẻ thù đế quốc của dân tộc trong ‘Hội nghị Hòa bình Việt Nam’ (1968-1973) tại Paris. Hà Nội tôi yêu với chân dung đỉnh đạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - lãnh tụ mùa xuân, với Đảng quang vinh - mùa xuân của ngọn Hải Đăng soi đường cho dân tộc, với người Hà Nội - mùa xuân của trùng dương trí tuệ và đại ngàn dũng cảm, với không gian lồng lộng Hà Nội, vũ trụ của thế đứng sắt thép tầm cao đã từng gồng gánh bao gian khổ hy sinh, chống đỡ bao nỗi đau đớn truân chuyên cho đồng bào cả ba miền đất mẹ. Với tôi, Hà Nội là trái tim rộng lớn căng đầy máu nóng của đồng bào ba miền, là thủ đô chung của cả nước Việt Nam với nền hòa bình, độc lập, tự do có được nhờ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại kính yêu đã gian nan dày công xây dựng. Nhờ đó, hôm nay chúng ta có chung được lá cờ son rực rỡ sao vàng : Lòng ta chung một cụ Hồ/ Lòng ta chung một thủ đô/ Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam (Tố Hữu) với tình cảm riêng 2chung : Quan san muôn dặm một nhà // Hà Nội, Huế, Sài Gòn/ Là cây một cội, là con một nhà. Hà Nội trong tôi, mỗi năm cứ vào những ngày cuối chạp với ngọn đông phong se lạnh, dù chưa hẹn bầy chim én xao xác bay về báo hiệu xuân sang trên phố phường đô thị, trong lòng tôi, không gian đặc thù và con người giàu cá tính Hà Nội vẫn mãi rực rỡ một màu xuân bất tận. Tôi cũng không quên, vào giao mùa thu - đông 1954 (tháng 10), trong không khí vỡ òa niềm vui thắng lớn, mênh mang giai điệu trầm hùng khúc khải hoàn ca của nhân dân thủ đô, đoàn quân anh hùng bách thắng Việt Nam, từ chiến khu Việt Bắc rầm rập đỗ về tiếp quản thủ đô, có người Việt Nam nào đã tự hào không nghĩ đó là một mùa xuân chiến thắng. Và còn nữa điệp khúc trong tôi, với Hà Nội yêu thương, mãi mãi hằng năm với bốn mùa xuân diễm tuyệt của núi sông hoa gấm giữa đất trời lồng lộng, tôi luôn dành cho thủ đô Tổ quốc mỗi độ vào xuân tình cảm yêu thương hy vọng vô bờ : Hà Nội lên xuân cả bốn mùa / Mai đào không đợi sắc hoa phô / Lưng trời không có bầy chim én / Xuân cũng theo về năm cửa ô. Nghênh phong các Xuân Kỷ Hợi. 2019 D. T 3

Xem

THẰNG MỰC - NGUYỄN THANH

Nam nghĩ lại, nếu mẹ hiền nơi chốn cửu tuyền không vui khi đọc những dòng chữ này, nó cũng đành cam chịu tiếng mình là đứa con bất hiếu. Với mẹ, ơn cúc dục cù lao, chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sự hy sinh như Đông hải bao la, Nam đâu dám quên công lao trời biển của người đã xẻ thịt mình cho con được ra đời

Xem

BÀI THƠ ĐỊNH MỆNH - NGUYỄN THANH

Buổi sáng chủ nhật đầu tháng 5 năm 2007. Trong cuộc họp mặt của nhóm bạn cựu học sinh Trường trung học Phan Thanh Giản chúng tôi có Nguyễn Trung Quân ở hải ngoại về thăm gia đình.

Xem

BẾN XƯA - NGUYỄN THANH

Những quầng sáng nhấp nháy chói chang cùng tiếng nổ pháo bông lụp bụp từ bầu trời đêm ba mươi Tết tắt dần trong bóng tối càng lúc càng đậm đặc. Chỉ còn lại tiếng trò chuyện lào xào của mấy nam nữ thanh niên đi chơi khuya đổ về nhà từ con đường bán hoa dọc bờ kè sông Cái Khế.

Xem

DÒNG SÔNG ĐỊNH MỆNH - NGUYỄN THANH

. Đêm chếch sang canh tư.Mảnh trăng hạ tuần mong manh như chiếc trâm vàng, giạt về phương đoài, lặn khuất từ lâu trong không gian u tịch. Đàn vạc ăn khuya bay về tổ buông vài tiếng kêu rời rạc, não nùng. Cảnh vật Ngã ba kinh Ông Nghệ như còn chìm sâu trong giấc ngủ. Mấy tháng qua, có tin bọn Tây sẽ đi bố, trên sông khuya chỉ còn thưa thớt ít chiếc thuyền câu tôm hay ghe đáy. Vài chiếc xuồng của bà con nghèo đánh liều chở rau cải, trái cây, gà vịt… ra bán ở chợ Tân Quới.

Xem
Processing...